Nếu bị chảy máu do bệnh trĩ, bệnh lỵ, hay rong kinh, băng huyết, cây huyết dụ có thể giúp cầm máu và cải thiện bệnh.
Cây huyết dụ thường được trồng làm cảnh. Có hai loại cây huyết dụ. Một loại lá đỏ cả hai mặt và một loại lá đỏ một mặt, còn mặt kia lá có màu xanh. Cả hai loại đều được Đông y dùng làm thuốc. Theo Đông y, huyết dụ có vị nhạt, hơi đắng, tính mát, có tác dụng bổ huyết, tiêu ứ, cầm máu dùng chữa chứng kiết lỵ, rong kinh, phong thấp nhức xương, xích bạch đới…
Rong kinh: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 10 gr rễ cỏ tranh, 10 gr đài tồn tại trên quả mướp, 10 gr rễ gừng. Tất cả mang thái nhỏ sắc với 400 ml nước còn 100 ml. Chia uống làm hai lần trong ngày.
Trĩ ra máu, đái ra máu, băng huyết: Lấy 20 gr lá huyết dụ tươi rửa sạch. Đổ 200 ml nước vào sắc còn 100 ml, chia uống trong ngày.
Chảy máu cam, cháy máu dưới da: Lấy 30 gr lá huyết dụ tươi, 20 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr lá trắc bá (sao cháy) sắc kỹ uống đều đến lúc khỏi.
Kiết lỵ ra máu: Lấy 20 gr lá huyết dụ, 12 gr cỏ nhọ nồi, 20 gr rau má. Rửa sạch, giã nát, thêm ít nước sôi để nguội, gạn lấy nước thuốc uống. Dùng 2 – 3 ngày, nếu không giảm thì đến khám bệnh để được điều trị dứt điểm.
Phong thấp đau nhức, bị thương ứ máu: Lấy 30 gr hoa, lá, rễ cây huyết dụ, 15 gr huyết giác. Sắc uống đến lúc có kết quả.
Theo Báo Đất Việt