% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Nghiên cứu về khoa học huyền bí, tâm linh, ufo, chính trị, tôn giáo
Zecharia Sitchin (tiếng Nga: Захария Ситчин; Azerbaijan: Zaxariya Sitçin) (ngày 11 tháng 7 năm 1920, ngày 09 tháng 10 năm 2010) [1] là một người Mỹ gốc Azerbaijan là tác giả của hàng loạt cuốn sách đưa ra giải thích về nguồn gốc loài người liên quan đến các người ngoài hành tinh cổ đại. Sitchin cho rằng nền văn hóa Sumer cổ đại (Lưỡng Hà) được tạo ra từ các Anunnaki, một sinh vật tiên tiến đến từ hành tinh có vị trí xa nhất trong Thái dương hệ, xếp sau Hải vương tinh, được gọi là Nibiru. Ông tin rằng hành tinh Nibiru có chu kỳ quỹ đạo 3.600 năm xoay quanh mặt trời , và khẳng định rằng thần thoại Sumer có đề cập đến luận điểm này. Sách của Sitchin đã bán được hàng triệu bản trên toàn thế giới và đã được dịch ra hơn 25 ngôn ngữ. Giả thuyết của Sitchin đã bị các nhà khoa học và các học giả phản bác. Tác phẩm của ông đã bị chỉ trích vì phương pháp sai lầm và dịch sai của bản văn cổ cũng như các tuyên bố thiên văn học và khoa học thiếu chính xác. – Theo Wiki
Lưu ý: Trước đây hành tinh thứ 9 là Pluto (trước đây gọi là Sao Diêm Vương). Tuy nhiên đến tháng 8 năm 2006, hành tinh này đã được xét lại và với các yếu tố về khối lượng, đường kính và khả năng phản chiếu ánh sáng quá thấp so với 8 hành tinh còn lại, Pluto đã bị loại ra khỏi danh sách các hành tinh của Hệ Mặt Trời. Cho nên chính thức trong hệ mặt trời chỉ có 8 hành tinh.
Bài viết này tham khảo sách của Sitchin nên vẫn giữ nguyên lý luận của ông lúc đó gồm 9 hành tinh, nên Nibiru được gọi là hành tinh thứ 10.
Anunnaki là ai?
Trong các bản văn tự cổ, Anunnaki thường được đề cập để chỉ đến một nhóm các vị thần, một cái tên bắt nguồn từ tên của trời và đất. Anu và Ki được một số diễn giải khác là “dòng máu hoàng gia” hay “con cháu hoàng tộc“. Một số người tin rằng Anunnaki là những đứa con trai và con gái của trời và đất. Tuy nhiên, giả thuyết gây tranh cãi lớn nhất đó là ý kiến cho rằng họ chính là tổ tiên đã tạo ra nền văn minh Lưỡng Hà ( vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris – Trung Đông). Cũng theo giả thuyết này, những sinh vật ngoài trái đất chính là tác giả của những phát minh vượt bậc thời bấy giờ, đến từ hành tinh Nibiru hay còn gọi là Hành tinh X (Planet X).
Những bức tượng của người Sumer cho thấy hình dạng các Anunnaki được cho là có phần đầu giống rắn hoặc loài bò sát.
Văn hóa Sumer và Anunaki
Trong cuốn sách của Zecharia Sitchin, ông cho rằng nền văn minh cổ đại Sumer ( Sumer : ”những người đến từ trời cao” được tạo bởi Anunnaki, một sinh vật đến từ một nơi ngoài trái đất, đó là hành tinh Nibiru, xếp sau hành tinh xa nhất hệ mặt trời là Hải vương tinh. Ông cũng giả thuyết đây là một hành tinh đang trong thời kỳ diệt vong, và các sinh vật này du hành đến trái đất để tìm kiếm vàng, thứ mà họ sử dụng để chế biến thành nguyên liệu có thể cứu bầu khí quyển đang chết dần trên hành tinh của họ. Theo giả thuyết của tác giả Sitchin, Anunnaki là sinh vật đến từ hành tinh thứ 1o trong Thái Dương Hệ của chúng ta. Họ đã định cư trên trái đất từ 432.000 năm trước tại khu vực Lưỡng Hà, (Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Irag, Iran ngày nay) với mục đích khai thác khoáng sản vàng trên trái đất. Khoảng 250.000 năm trước, theo các tài liệu phục hồi được, các thợ khai thác mỏ đã nổi loạn chống lại điều kiện tồi tệ tại các khu khai thác. Hội đồng Anunnaki cấp cao đã quyết định tạo ra một sinh vật mới để làm nô lệ khai thác cho họ. Enki người đứng đầu về mặt khoa học và Ninhursag chủ nhiệm hội đồng sinh học đã lai tạo gien của Anunnaki và động vật Erectus Homo (người vượn cổ) để tạo ra loài người. Bởi vì là loài động vật lai, nên loài người ban đầu không có khả năng sinh sản. Nhưng do nhu cầu cần nô lệ nhiều hơn, Anunnaki đã biến đổi di truyền để loài người có thể duy trì và phát triển nòi giống.
Người ta cho rằng quá trình tiến hóa của loài người có sự can thiệp của Anunnaki
Một thời gian sau, con người đã tiến hóa vượt bậc, một số thoát khỏi các trung tâm thành phố Anunnaki và sinh sống khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển của loài người vượt tầm kiểm soát của Anunnaki. Chuyện này là không thể chấp nhận được đối với Hội đồng cấp cao Anunnaki. Họ đã thông qua chỉ thị tạo ra một số thiên tai như lũ lụt hòng quét sạch dân số giống loài mà họ đã dựng lên vào khoảng thời gian 12.500 trước đây. Một số Anunnaki được cứu sống bởi nhân vật quyền lực như Enki, người đã có công trong việc tạo ra di truyền ở loài người. Hàng nghìn năm tiếp theo trôi qua, con người được các Anunnaki sử dụng như là nô lệ, công nhân và binh sĩ chiến đấu cho những mâu thuẫn chính trị trong nội bộ các Anunnaki. Con người cũng chính là những nô lệ dựng lên các đền đài, cung điện, trạm thiên văn trên các châu lục từ Ai Cập, Ấn Độ đến Trung Mỹ theo yêu cầu của của họ.
Phù điêu cổ của người Sumer mô tả các Anunnaki
Khoảng 6000 năm trước, con người bắt đầu có nền văn minh của riêng mình và cũng đã đến lúc họ phải trở về hành tinh của mình theo đúng chu kỳ 3.600 năm của hành tinh Nibiru. Summer, nền văn minh Lưỡng Hà ra đời dưới sự giám sát của các Anunnaki. Các vì Vua là những người ưu tú được họ chọn lựa và trao quyền để thực thi các sứ mệnh của Anunnaki. Đây cũng là một chủng người mang những gien vượt trội của họ. Những vì vua và dòng dõi được họ huấn luyện với nền giáo dục tiên tiến về công nghệ, toán học, thiên văn … Và con người bắt đầu một cuộc sống độc lập của riêng mình.
Bằng chứng gì hỗ trợ giả thuyết của Sitchin?
Bằng chứng thiên văn
Hình minh họa sự kiên hành tinh
Nibiru va chạm với Tiamat,
tạo ra trái đất
Nền tảng giả thuyết của tác giả Zecharia Sitchin chính là hành tinh Nabuki, vậy có hay không sự tồn tại của hành tinh thứ 10 trong Thái Dương Hệ?, quê nhà của Anunnaki, về kích thước, tính chất đặc điểm như Sitchin đã mô tả?
Ngược dòng lịch sử, Tombaugh phát hiện ra Diêm vương tinh vào năm 1930. Christie, thuộc Đài quan sát Hải quân Mỹ phát hiện ra Charon, vệ tinh của Diêm vương tinh vào năm 1978. Các đặc tính tác động của Diêm vương tinh lên quỷ đạo mặt trăng Charon chứng minh vẫn phải còn một hành tinh lớn nữa chưa được khám phá. Diêm vương tinh không thể là tác giả của các nguyên nhân gây ra các dao động, “sự lắc lư’ được xác nhận rõ ràng của quỷ đạo Thiên vương tinh và Hải vương tinh . Các IRAS – vệ tinh thiên văn hồng ngoại thực hiện quan sát để tìm hành tinh thứ 10 một cách ráo riết vào những năm 83-84, như một nhà thiên văn tham gia dự án cho biết “tất cả còn phải làm là nên chuẩn bị tìm một cái tên đặt cho nó“. Năm 1992, Harrington và Van Flandern của Đài quan sát Hải quân cho biết với những thông tin họ có trong tay, hành tinh thứ 10 có tồn tại, thậm chí họ còn gọi nó là “kẻ xâm nhập”. Sau khi đọc bản dịch Enûma Eliš , một bản văn tự cổ của nền văn minh Sumer, được tìm thấy tại vùng Lưỡng Hà, Harrington đã mời Sitchin, đến tham gia một cuộc họp tại văn phòng của mình để so sánh kết quả quan sát có được hiện tại và các ghi chép thiên văn học của văn tự cổ xưa. Bản văn tự cổ Enûma Eliš được phục hồi cũng cung cấp nhiều thông tin về hệ mặt trời của chúng ta. Tại thời điểm Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Mộc tinh, Thiên vương tinh và Thổ tinh nằm trên quỷ đạo, còn có một hành tinh khác có kích thước bằng Thiên vương tinh nằm giữa quỷ đạo Mộc tinh và Thổ tinh có tên là Tiamat. Lúc này Trái đất chưa nằm trong Hệ mặt trời. Nibiru lúc này là một hành tinh lớn “lang thang” bị hút vào quỹ đạo của Thái Dương Hệ. Do đến từ ngoài hệ mặt trời, nó gây ra các xáo trộn ảnh hưởng đến các quỹ đạo các vệ tinh của các hành tinh hiện có. Trục Thiên vương tinh bị nghiêng sang một bên. Diêm vương tinh bị trôi dạt ra khỏi quỷ đạo của Thổ tinh và xoay quanh quỷ đạo mới của riêng mình. Lực hút cũng bẻ cong đường đi của Nibiru gây ra các va chạm. Đầu tiên vệ tinh của nó va chạm với hành tinh lớn Tiamat, và sau đó chính nó cũng chạm vào hành tinh này, mảnh vở lớn nhất của nó hình thành nên trái đất ngày nay, và vệ tinh của kẻ xâm nhập cũng trở thành mặt trăng của hành tinh chúng ta. Những mảnh vụn nhỏ lớn tạo thành các vành đai tiểu hành tinh (asteroid belt) và thiên thạch, sao chổi lang thang trong hệ mặt trời. Vành đai Thái Bình Bình Dương được cho là cái sẹo còn lại sau sự kiện va chạm này. Như vậy Nibiru chính thức gia nhập vào hàng ngũ các hành tinh anh em xoay quanh mặt trời, và chu kỳ quỷ đạo của nó là 3.600 năm so với trái đất chỉ có 365 ngày (chính xác là 365,2564) . Tuy nhiên chiều quỹ đạo của nó ngược lại với tất cả các hành tinh khác, đi qua vùng vành đai các tiểu hành tinh nằm giữa Hỏa tinh và Mộc tinh tại điểm gần nhất (so với mặt trời) và điểm xa nhất của Diêm vương tinh.
Về cơ bản những thông tin mà Harrington có được trùng khớp với những gì chỉ ra trong bản văn tự cổ. Vị trí của hành tinh X (Nibiru) theo quan điểm của hai ông là thống nhất.
Bằng chứng công nghệ
Oopart là thuật ngữ dùng để mô tả các hiện vật, đồ chơi, dụng cụ, thiết bị kỹ thuật và tài liệu có tính năng vượt bậc so với niên đại của chúng được tìm thấy qua khai quật. Thí dụ, một chiếc bình cổ có công dụng như hoạt động của pin vào thời cổ đại được tìm thấy tại sa mạc Irag có niên đại 2500 năm trước Công nguyên (Xem thêm tại đây), Các mô hình máy bay, phi thuyền, máy bay trực thăng …trong lăng mộ cổ Ai Cập (Xem thêm tại đây), những tảng đá khối nặng 1000 tấn được cắt chính xác để xây dựng các Kim Tự Tháp vẫn là một câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học và khảo cổ ngày nay. Đỉnh nhất về oopart là phát hiện gần đây nhất của David Hudson, đó là “monoatomic gold“(một chất siêu dẫn ở nhiệt độ trong phòng, có đặc tính kháng trọng lực và hiện đang được nghiên cứu bởi hội đồng vật lý cấp cao). Phát hiện của Hudson có vẻ như trùng khớp với lập luận của Sitchin trước đó, ông cho rằng người Anunnaki đến hành tinh chúng ta để khai thác vàng và sử dụng nó để cứu hành tinh Nibiru của họ. Điều này cũng giúp Gardner làm sáng tỏ những bí ẩn về các nhà máy chế biến vàng của người Anunnaki trên đỉnh núi Horeb, được phát hiện bởi Sir Flinders Petrie năm 1889, cho thấy ”monoatomic gold” đã được biết trước đó ít nhất 3000 năm. Ngoài ra oopart từ nhiều ngành cùng với các tài liệu ghi chép khác nhau cũng cho thấy có một nền văn minh tiên tiến đã từng tồn tại tại một vài thời điểm, họ sở hữu một trình độ công nghệ cao, và đó chỉ có thể là nền văn minh Anunnaki.
Bức tượng phi thuyền được Sitchin vẽ lại (thêm phần đầu bị mất) từ nguyên gốc
Hình tàu bay, phi thuyền, trực thăng được tìm thấy trong lăng mộ Ai Cập
Các bức tượng cổ của người Maya, có hình dáng như các phi hành gia ngày nay
Bằng chứng tài liệu
Các tài liệu lịch sử ghi nhận sự tồn tại và hoạt động của các Anunnaki chỉ mới bắt đầu được khám phá vào đầu những năm 1800.
Bản đất sét, thông tin lưu giữ của người Sumer
Khai quật các địa điểm khảo cổ tại vùng Lưỡng Hà, người ta đã phát hiện nền văn minh tiên tiến Sumer đáng kinh ngạc, vượt xa những hiểu biết của con người về thời cổ đại, có hàng ngàn bảng đất sét ghi lại không chỉ ghi lại các hoạt động buôn bán, kết hôn, quân sự mà còn có những ghi chép tính toán về khoa học thiên văn tiến tiến của các Anunnaki. Rõ ràng những người Sumer biết rằng những người đến ngoài hành tinh là những sinh vật bằng da bằng thịt. Một trong những phát hiện cực kỳ ấn tượng gần đây nhất đó là một căn phòng có kích thước 1.8 x 2.7 mét, được niêm phong tại Sippar, bên trong có một bộ 400 viên đất sét được xếp gọn gàng trên kệ, chứa đầy đủ thông tin về lịch sử người cổ đại theo trình tự thời gian. Các bằng chứng áp đảo và mạnh mẽ, nếu không ai có những phản biện tốt hơn, nó sẽ được chấp nhận như một thực tế, các quan điểm về thời cổ đại hoàn toàn khác những gì chúng ta đã biết.
Bằng chứng di truyền
Những tài liệu phục hồi cho thấy vị trí các phòng phòng thí nghiệm của Anunnaki được đạt ngay tại các vị trí các mỏ vàng tại phía đông Trung Phi.
Tượng vua Anu
Địa điểm này rơi đúng ngay vào tâm điểm, nơi tìm kiếm xuất phát các ti thể DNA đầu tiên của “Eva”, tức loài Homo Sapiens (vượn người tiến hóa) vào cùng thời gian (Các kỹ sư khai thác mỏ vàng ở châu Phi tìm thấy mỏ vàng có niên đại 100.000 năm tuổi tại đây). Các bằng chứng và mô tả của kỹ thuật gien tiên tiến đều nằm trong các tài liệu cổ. Sự tiến hóa của loài người chỉ trong vòng 250.000 năm, nhanh vượt bậc so với các loài khác trên trái đất mất hàng triệu năm như loài Homo Erectus (một nhóm giống loài trong họ Người đã từng tồn tại khoảng 1,8-3 triệu năm TCN, được Eugène Dubois phát hiện ra trên đảo Java năm 1891.) trước chúng ta. Như một số nhà tư tưởng chỉ ra, chúng ta hoàn toàn dị thường và khác biệt so với các động vật khác trên trái đất. Đương nhiên rất nhiều nhà khoa học đã phản bác các luận điểm của Zecharia Sitchin và những người ủng hộ ông. Tuy nhiên tất cả những tranh cãi vẫn không đưa ra được những bằng chứng phản biện hoàn toàn thuyết phục. Điều đó chúng ta sẽ cùng xem xét trong một bài viết khác.
Một số bài viết liên quan đến những phát minh vượt bậc của con người cổ đại:
Bạn có thể tìm hiểu thêm về Anunnaki và lịch sử của họ qua video phỏng vấn Micheal Tellinger, người thường được nhắc đến như là một chuyên gia nghiên cứu về Annuaki