CNM365 Chào ngày mới 23 tháng 3 Wikipedia Ngày này năm xưa Ngày Khí tượng Thế giới, ngày Cộng hòa tại Pakistan. Năm 1022 – Thái tử Triệu Trinh trở thành hoàng đế thứ 4 của triều Tống ở tuổi 12, tức Tống Nhân Tông. Năm 1400 – Hồ Quý Ly buộc cháu ngoại là Trần Thiếu Đế của triều Trần phải nhường hoàng vị cho mình, rồi đặt quốc hiệu là Đại Ngu, khởi đầu triều Hồ. Năm 1903 – Hai anh em nhà Wright nhập đơn lấy bằng sáng chế cho một trong những máy bay thành công đầu tiên của họ. (hình) Năm 1933 – Hội nghị Reichstag chấp nhận Đạo luật Cho quyền, luật này cho Adolf Hitler quyền độc tài về luật pháp Đức. Năm 1951 – Chiến tranh Đông Dương: Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu tiến công quân Pháp tại các vị trí ven đường 18 đoạn Phả Lại-Uông Bí, mở màn Chiến dịch Hoàng Hoa Thám.
Hồ Quý Ly
Hồ Quý Ly | |
---|---|
Vua Việt Nam (chi tiết…) | |
Vua nhà Hồ | |
Trị vì | 1400 – 1401 |
Đăng quang | 1400 |
Kế nhiệm | Hồ Hán Thương |
Thông tin chung | |
Tên thật | Lê Quý Ly Hồ Lý Nguyên Hồ Quý Ly |
Niên hiệu | Thánh Nguyên (1400 – 1401) |
Thụy hiệu | Chương Hoàng Đế |
Miếu hiệu | Quốc Tổ |
Hoàng tộc | Nhà Hồ |
Sinh | 1336 Việt Nam |
Mất | 1407 Trung Quốc |
An táng | Trung Quốc |
Tôn giáo | Phật giáo |
Hồ Quý Ly (1336–1407) là một vị vua Việt Nam, người đã tiến thân từ một đại thần dưới thời nhà Trần để khởi đầu nhà Hồ trong lịch sử Việt Nam. Trong thời gian cầm quyền, ông đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng, nhưng bị thất bại trong việc hợp sức toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của nhà Minh.
Tiểu sử
Hồ Quý Ly (胡季犛) trước có tên là Lê Quý Ly (黎季犛), tự là Lý Nguyên. Theo gia phả họ Hồ[1], tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang (Trung Quốc), đời Hậu Hán thời Ngũ đại Thập quốc (năm 947-950), tương đương thời Dương Tam Kha của Việt Nam, sang làm Thái thú Diễn Châu và định cư ở hương Bào Đột, nay là xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đến đời nhà Lý, có người trong họ lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Thanh Hóa, làm con nuôi tuyên úy Lê Huấn, từ đấy lấy Lê làm họ mình. Quý Ly là cháu bốn đời của cụ Hồ Liêm[2].
Ông có hai người cô đều được vua Trần Minh Tông lấy làm cung phi và đều trở thành mẹ hai vua nhà Trần, do đó ông sớm được đưa vào làm quan trong triều đình nhà Trần.
Nhà sử học Lê Văn Hưu viết: Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ Liêm (Hồ Liêm từ quê Nghệ An ra Thanh Hóa, được một viên quan đại thần họ Lê nhận làm con nuôi). Ông là người có tài năng, lại có hai người cô là phi tần của vua Trần Minh Tông và sinh hạ được ba vị vua cho nhà Trần, nhờ đó ông rất được vua Trần trọng dụng. Hồ Quý Ly đã nắm giữ được chức vụ cao nhất trong triều đình. Sau vụ một số quý tộc Trần mưu giết Hồ Quý Ly không thành (1399), năm 1400, ông phế truất vua Trần và lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu – nhà Hồ được thành lập.[cần dẫn nguồn]
Sự nghiệp
Phụ chính nhà Trần
Năm 1371, vua Trần Dụ Tông cho Hồ Quý Ly làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh.
Trong hơn 20 năm làm đại thần nhà Trần, Hồ Quý Ly nhiều lần được cử cầm quân ra mặt trận chống lại Chiêm Thành, nhưng do tài năng quân sự hạn chế nên phần lớn những lần xuất quân, ông đều bị thất trận. Tuy nhiên, ông vẫn được sự tin cậy của các vua Trần.
Sau khi chiến tranh với Chiêm Thành lắng xuống, các tông thất nhà Trần nhiều người thấy uy quyền trong triều của Lê Quý Ly quá lớn, sợ ông cướp ngôi nhà Trần nên đã mưu giết ông. Nhưng Hồ Quý Ly được sự tin tưởng tuyệt đối của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, ra sức ủng hộ và che chở ông. Do đó, những người mưu hại ông đều bị Thượng hoàng giết, trong đó có cả con, cháu của chính thượng hoàng.
Năm 1395, thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, ông được phong làm Phụ chính Thái sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong nước. Vua Trần Thuận Tông là con rể ông, hoàn toàn bị ông thao túng.
Tháng 4 năm 1396[3], Hồ Quý Ly phát hành tiền giấy (thông bảo hội sao). Đây là lần đầu trong chính sử Việt Nam, tiền giấy được lưu thông.
Hồ Quý Ly bức vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Tây Đô, việc này thúc đẩy một số quần thần trung thành với nhà Trần (như Trần Khát Chân, Trần Nhật Đôn, Trần Nguyên Hàng…) mưu tính làm chính biến lật đổ họ Hồ. Nhưng Lê Quý Ly đã ra tay trước, tiêu diệt hết phe này[4].
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (tức 23 tháng 3 1400), Lê Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lập làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, đổi niên hiệu là Thánh Nguyên (聖元). Ông đổi sang họ Hồ, lập nên nhà Hồ.
- Lê Quý Ly sở dĩ đổi sang họ Hồ vì nhận mình có thủy tổ là Hồ Công Mãn, dòng dõi vua Thuấn, đặt sang quốc hiệu Đại Ngu để kế tục Ngu Thuấn. Tuy nhiên, Trần Xuân Sinh cho rằng: Hồ Quý Ly đã nhận sai. Dòng dõi vua Thuấn chỉ có chi họ Diêu và họ Quy chứ không có chi nào họ Hồ. Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Hồ Công Mãn là thủy tổ họ Trần chứ không phải họ Hồ. Vua Chu Vũ Vương sau khi diệt nhà Thương, tìm được Quy Mãn là dòng dõi vua Thuấn và phong cho làm vua nước Trần. Sau khi mất, Mãn được đặt thụy hiệu là Trần Hồ công. Công là tước, Hồ là thụy hiệu chứ không phải họ. Từ Trần Hồ công truyền các đời, tới Trần Thân công, Trần Tương công… Các vua nước Trần từ thời Tây Chu trở đi đều là dòng dõi Trần Hồ công chứ không phải mang họ Hồ. Do đó Lê Quý Ly đổi sang họ Hồ và nhận dòng dõi vua Thuấn chỉ là mượn danh dòng họ đế vương cổ xưa[5] Sau này nhà Minh sang đánh Đại Ngu cũng kể ra 1 trong 22 tội của Hồ Quý Ly là tự ý đổi từ họ Lê sang họ Hồ[6].
Vua nhà Hồ
Xây dựng đất nước
Hồ Quý Ly lên ngôi, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên. Chưa được một năm, theo cách nhà Trần, ông nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, làm Thái Thượng hoàng nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi công việc.
Năm 1403, ông ban hành các đồ đo lường (cân, thước, đấu, thưng) để làm chuẩn trong việc buôn bán[3].
Năm 1404, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương quy định các người đỗ thi Hương phải qua kì thi làm toán pháp mới được tiếp tục thi Hội.
Trước sự lăm le xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly tích cực chấn chỉnh quân đội, xây thành, đóng thuyền chiến, v.v. Ông thường hỏi các quan:
- “Ta làm thế nào cho có 100 vạn quân để đánh giặc Bắc?”
Để có nhiều quân, Hồ Quý Ly lập ra hộ tịch bắt mọi người cứ 2 tuổi trở lên phải kê khai ai ẩn náu phải phạt. Hộ tịch làm xong, số người từ 15 tuổi đến 60 hơn gấp mấy lần trước. Quân số do vậy tăng thêm nhiều.
Hồ Quý Ly đặc biệt chú trọng luyện tập thủy binh để giữ mặt sông mặt biển. Ông cho đóng những con thuyền lớn bên trên lát ván để đi lại dễ dàng, khoang dưới cho người chèo chống rất lợi hại. Ở các cửa bể và những nơi hiểm yếu trên các sông lớn, ông cho đóng cọc, hình thành những trận địa mai phục quy mô.
Về biên chế quân đội, Quý Ly phân chia Nam Bắc gồm 12 vệ, Đông Tây phân ra 8 vệ. Mỗi vệ có 18 đội, mỗi đội có 18 người. Đại quân có 30 đội, trung quân 20 đội Mỗi doanh có 15 đội, mỗi đoàn có 10 đội. Ngoài ra còn 5 đội cấm vệ quân. Tất cả do một Đại tướng thống lĩnh.
Thất bại trước nhà Minh
-
Bài chi tiết: Chiến tranh Minh-Đại Ngu
Năm Ất Dậu (1405) sau những năm tháng ngoại giao mềm mỏng, chịu lép không kết quả, cha con Hồ Quý Ly phải đứng trước thử thách hiểm nghèo: Đối phó với cuộc xâm lược của nhà Minh. Hồ Quý Ly giao cho Hoàng Hối Khanh chỉ huy đắp thành Đa Bang, lấy gỗ đóng cọc ở ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì) và đưa quân đóng giữ các nơi. Nhưng đúng như Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân có theo hay không theo mà thôi.“
Năm 1406, lấy cớ “Phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang 20 vạn quân sang đánh Đại Ngu.
Trước các mũi tiến công của địch, đội quân nhà Hồ có chặn đánh ở một vài nơi rồi rút về giữ phòng tuyến Nam sông Hồng. Quân Minh thừa cơ hội đã tập trung binh lực vượt sông Hồng đánh chiếm thành Đa Bang. Cuối năm Bính Tuất (ngày 20 tháng 1 năm 1407) thành Đa Bang thất thủ, tuyến phòng ngự của quân nhà Hồ cũng tan vỡ nhanh chóng. Từ Đa Bang ngày 22 tháng 1 năm 1407, quân nhà Minh tràn xuống chiếm cố đô Thăng Long. Quân nhà Hồ lại một lần nữa rút lui xuống miền hạ lưu sông Hồng. Và sau một vài trận phản công thất bại, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đem theo các thuộc hạ chạy ra biển rồi vào Thanh Hóa.
Đến Lỗi Giang (Mã Giang) quân Minh đuổi kịp, quân Hồ lại một phen tan tác. Tướng Ngụy Thức thấy thế nguy cấp, bèn tâu:
- “Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ hạ tự đốt đi mà chết còn hơn.”
Hồ Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An. Quân Minh tiếp tục đuổi theo, đến Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt. Lúc đó là tháng 6 năm Đinh Hợi (1407). Có thuyết nói ông bị nhà Minh sát hại khi sang Yên Kinh (Bắc Kinh), có thuyết lại nói ông bị đày làm lính ở Quảng Tây và mất sau đó vài năm[7].
Nhà Hồ trị vì đất nước từ năm Canh Thìn (1400) đến năm Đinh Hợi (1407), được trọn 7 năm thì sụp đổ. Việt Nam lại nằm trong vòng đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Nhà thơ
Hồ Quý Ly là một vua có nhiều năng lực về chính trị, kinh tế, văn hóa. Trong các tác phẩm của ông, có những bài thơ sáng tác dùng vào việc cai trị và đối ngoại.
Khi còn là một đại quan nhà Trần, trong hoàn cảnh nhà Trần đã suy yếu cực độ, đất nước nghiêng ngả, nhân dân cực khổ, Hồ Quý Ly đã cương quyết đề cao công tác giám sát, chống thói xu thời không dám can gián cái sai của nhà vua khiến quốc pháp bị xem thường. Với quan Ngự sử Trung đô úy Đỗ Tử Trừng là người có trách nhiệm, ông gửi lời trách cứ trong một bài thơ:
|
|
|
Khi thấy nhà vua bất tài vô dụng, ông cương quyết phế bỏ, lập nên nhà Hồ thay thế nhà Trần. Ông có bài thơ Ký Nguyên quân (gửi Nguyên quân – Trần Thuận Tông[8]) như sau:
|
|
|
Ông là vị vua Việt Nam đầu tiên quyết định dùng chữ Nôm để chấn hưng nền văn hóa dân tộc, cho dịch các kinh, thư, thi. Chính ông đã biên tập thiên “Vô dật” để dạy cho con cái nhà quan và soạn ra 14 thiên Minh đạo dâng lên Trần Nghệ Tông khi trước.
Về mặt xã hội, ông thiết lập sở Quản tế (như ti y tế ngày nay). Ở các lộ, ông đều lập một kho lúa gọi là Thường bình, lấy tiền công mua lúa trữ vào, phòng những năm mất mùa đem bán rẻ cho dân chúng.
Ông thực thi lại chính sách phân phối ruộng đất, quy định trong nước chỉ trừ đại vương và trưởng công chúa, còn không người nào được phép có quá 10 mẫu ruộng. Số ruộng thừa phải nộp lại cho Nhà nước. Ông còn hạn chế số nô tì trong các nhà quyền quý, các gia đình phải tùy theo thứ bậc mà nuôi tôi tớ nhiều hay ít, không được quá số quy định.
Hồ Quy Ly là người có tinh thần tự chủ cao. Khi đã bị nhà Minh bắt giữ, ông đáp lời người Trung Quốc hỏi về phong hóa nước Nam bằng một bài thơ:
|
|
|
Giai thoại
Trong Kiên biều tập của Chử Nhân Hoạch soạn đời nhà Thanh có chép một giai thoại lạ lùng về Hồ Quý Ly, được Lê Quý Đôn dẫn lại trong Kiến văn tiểu lục [9]
“ | Con cháu họ Trần làm vua nước Giao Chỉ, lúc ấy có người ở Giang Tây là Lê Quý Ly, khi còn bé sang nước ấy buôn bán, ở thuyền lên bờ, thấy trên bãi cát có câu rằng
Sau Quý Ly mon men được làm quan. Một hôm vua Trần nghỉ mát ở điện Thanh Thử, sân điện có hàng ngàn cây quế, nhà vua ra câu đối rằng:
Bầy tôi chưa ai kịp đối. Quý Ly nhớ lại câu đã trông thấy trên bãi cát khi trước, liền đem câu ấy đối lại. Nhà vua giật mình, nói “Sao nhà ngươi biết được việc trong cung của ta ?”. Quý Ly cứ tình thực tâu bày. Nhà vua nói “Đấy là số trời”. Bởi vì nhà vua có một cô con gái tên là Nhất Chi Mai, dựng cung Quảng Hàn để cho ở. Nhân câu đối ấy, nhà vua liền đem cô gái này gả cho Quý Ly. |
” |
Tác phẩm
Hồ Quý Ly đã viết các tác phẩm sau:
- Quốc ngữ thi nghĩa (viết về chủ đề giáo dục, nay đã thất truyền)
- Minh đạo lục (sách lý thuyết, 14 thiên, nay đã thất truyền)
Nhận định
Về cải cách và chống xâm lược
Sách Hồ Quý Ly và những cuộc cải cách trong lịch sử của Viện Sử học đã nêu nhận định khái quát về Hồ Quý Ly.
Nói chung, những cải cách của Hồ Quý Ly nhằm mục đích xây dựng một nước Đại Ngu cường thịnh. Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Hồ Quý Ly và những cải cách của ông thực hiện quá dồn dập trong một thời gian ngắn, không đạt kết quả như mong đợi và gây ra sự phẫn nộ trong nhân dân; đặc biệt là với các sĩ phu trung thành với nhà Trần.
Hồ Quý Ly, theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, là một nhà cải cách có tài nhưng khả năng về quân sự của ông chưa tương đương với tài năng về văn trị. Khi còn làm tướng nhà Trần cầm quân chống Chiêm Thành, Hồ Quý Ly thường bị thua trận (thậm chí đã bị tướng dưới quyền chê là “bất tài”). Khi phải đối phó với nguy cơ xâm lược của nhà Minh, Hồ Quý Ly chỉ mong dùng lực đối lực để chống lại kẻ địch đất rộng người nhiều mà không tính tới chiến thuật. Ông than thở với các quan: “Ước gì có 100 vạn quân để chống lại giặc bắc“. Về điểm này Hồ Nguyên Trừng sáng suốt hơn ông. Khi được Hồ Quý Ly giao phó việc quân sự, Hồ Nguyên Trừng nói “Thần không ngại đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi“. Nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của Hồ Quý Ly chống lại thế lực ngoại bang của nhà Minh là sự mất lòng dân[10].
Khi lâm nguy, ông cũng mang phong độ của một văn nhân chứ không giống một chiến tướng (xem bài thơ phần Nội trị) nên không dám liều mình chết ở Lỗi Giang, dù lúc đó tuổi đã 70.
Hồ Quý Ly là vị vua giỏi cầm bút hơn cầm gươm. Nếu không có sự can thiệp mạnh của nhà Minh, rất có thể sự nghiệp của ông hoàn toàn có khả năng phát triển, mặc dù gặp phải sự chống đối của những người trung thành với nhà Trần trong nước[11]..
Về trách nhiệm trước sự xâm lăng của nhà Minh
Sử gia Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược nêu một giả thiết khác hơn về ông[12].
“ | Xem công việc của Hồ Quý Ly làm thì không phải là một người tầm thường, nhưng tiếc thay một người có tài kinh tế như thế, mà giả sử cứ giúp nhà Trần cho có thủy chung (trước sau), thì dẫu giặc Minh có thế mạnh đến đâu đi nữa, cũng chưa hầu dễ đã cướp được nước Nam, mà mình lại được cái tiếng thơm để lại nghìn thu. Nhưng vì cái lòng tham xui khiến, hễ đã có thế lực là sinh ra bụng muốn tranh quyền, cướp nước. Bởi thế Hồ Quý Ly mới làm sự thoán đoạt, và nhà Minh mới có cái cớ mà sang đánh lấy nước An Nam. Cũng vì cái cớ ấy, cho nên lòng người mới bỏ họ Hồ mà đem theo giặc, để đến nỗi cha con họ Hồ thua chạy, bị bắt, phải đem thân đi chịu nhục ở đất nước người! Nhưng đấy là cái tội làm hại riêng cho một họ Hồ mà thôi, còn cái tội làm mất nước Nam, thì ai gánh vác cho Quý Ly? |
” |
Tuy nhiên, các sử gia hiện đại có ý kiến cho rằng: Dù nhà Hồ thay ngôi nhà Trần hay không thì nhà Minh vẫn xâm lược. Dẫn chiếu từ thời Trần Phế Đế cho thấy khi Trần Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, Minh Thái Tổ đã định đánh Đại Việt, nhưng do có người can gián (chưa có thời cơ tốt) nên tạm thôi[13]. Tới khi Minh Thái Tổ qua đời, cháu nội Minh Huệ Đế (Chu Doãn Văn) là ông vua ôn hoà lên thay (1398), Hồ Quý Ly chọn thời điểm lấy ngôi nhà Trần (1400) lúc đó khá phù hợp, khi bản thân ông tuổi đã cao. Nhưng biến cố sau đó nằm ngoài dự tính của ông. Không lâu sau (1403), Doãn Văn bị chú là Chu Đệ cướp ngôi. Chu Đệ – Minh Thành Tổ là một vị vua hiếu chiến như vua cha Thái Tổ, và đây cũng có thể xem là một nguyên nhân khiến Đại Ngu bị xâm lược. Nếu Quý Ly không lấy ngôi nhà Trần thì sau khi ông mất, nhà Trần suy yếu và kiệt quệ sau “hoạ Chiêm Thành” cũng sẽ trở thành tiêu điểm cho “lòng tham” của những vua phương bắc hiếu chiến như Chu Đệ[14].
Tổng quát chung
Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử khó mà nhận xét cho đích đáng được. Nếu nhìn bằng quan điểm kiểu phong kiến, Hồ Quý Ly là kẻ nghịch thần tiếm ngôi, đại gian đại ác; nhưng xét theo mặt khác, Hồ Quý Ly lại là nhà cải cách, nhà chính trị không tệ, mang hoài bão xây dựng đất nước thái bình. Nhận xét về ông, có nhiều sử gia bàn luận khen chê khác nhau.
Nhìn lại và đánh giá cho thật kỹ lưỡng thì Hồ Quý Ly tuy là người có tấm lòng vì sự phồn vinh của đất nước, nhưng tư cách lại quá tầm thường, ích kỷ. Lúc làm quan cho nhà Trần, đầu tiên thì ông ta xu phụ quyền thế, chỉ biết dựa vào thân thế và tài nịnh vua để mà leo lên vũ đài chính trị, lại ngầm dựng bè đảng tạo thế lực hùng hậu cho mình. Thân là quan đại thần mà không chính trực vì công việc mà lại làm chuyện nịnh dối vua, lôi kéo bè thế, ấy quả là gian thần rồi. Một điều lạ lùng là vua Trần Nghệ Tông lại tin ông ta một cách lạ lùng, điều đó cũng có thể vì Nghệ Tông quá u muội, mà cũng vì tài dối vua của Hồ Quý Ly quá “cao cơ”. Đến khi nắm quyền rồi, ông ta bắt đầu cải cách đất nước (những cải cách của ông đã bắt đầu từ khi lên nắm quyền phụ chính cho nhà Trần chứ không phải mới ban khi lên ngôi vua), có vẻ là người am hiểu thế sự, biết canh tân đổi mới đất nước, tỏ tài kinh bang tế thế, nhưng lòng dạ ông ta lại quá vị kỷ, hẹp hòi, lòng tham vô đáy một cách đúng nghĩa, có quyền cao rồi còn muốn leo lên ngôi vua, lại còn hãm hại những kẻ không cùng phe cánh với mình. Có thể nói, công lao kiến thiết của ông ta thì chưa tỏ bao nhiêu, mà cái đức xấu đã hiện ra quá rõ. Hồ Quý Ly tuy có tài mà cái đức bị mang tiếng nhơ thì làm sao mà được lòng người, huống chi những cải cách của ông ta quá dồn dập, khiến đảo lộn cả xã hội một nước. Mặc dù những cải cách đó có vẻ nghe qua thì lợi dân lợi nước, nhưng thực chất thì chẳng hợp lòng dân được, vì cái tính của dân rất ngại có thay đổi mà họ chưa biết điều thay đổi đó có đem lại cho họ tương lai tốt hơn không.
Rốt cuộc từ dân cho đến giới quyền quý, ai nấy đều ghét ông, mà cũng vì cái tư tưởng Nho giáo thời đó người người đều kì thị ông là phản nghịch, thành ra cái “lòng thành” vì nước của Hồ Quý Ly lại chẳng được ai đón nhận, mà còn trở thành cái cớ cho giặc Minh xâm lược. Nói cho gọn thì công lao của ông ta đương thời chẳng ai thèm ghi nhận, mà cái tội nhơ nhuốc cũng ông thì ai cũng biết, thế mới biết, một nhà chính trị ngoài cái tài kinh tế ra, còn phải biết gây dựng cho mình cái danh tiếng tốt trước khi bước lên vũ đài chính trị vậy.
Gia đình
- Vợ: Công chúa Huy Ninh, con gái Trần Minh Tông. Trước lấy Nhân Vinh (?-12/1370). Trần Nghệ Tông gả em gái cho Quý Ly tháng 5 âm lịch năm 1371.
- Con:
- Hồ Nguyên Trừng, không rõ mẹ là ai.
- Hồ Hán Thương, con công chúa Huy Ninh.
- Công chúa Thánh Ngẫu, con công chúa Huy Ninh. Sau là Khâm Thánh hoàng hậu của Trần Thuận Tông.
Xem thêm
- Nhà Trần
- Nhà Hồ
- Họ Hồ làng Quỳnh Đôi
- Hồ Hán Thương
- Hồ Nguyên Trừng
- Chiến tranh Việt-Chiêm 1367-1396
- Chiến tranh Việt-Chiêm 1400-1407
- Chiến tranh Minh-Đại Ngu
Tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư – Bản điện tử
- Khâm định Việt sử Thông giám cương mục – Bản điện tử
- Văn Tạo (2006), Mười cuộc cải cách, đổi mới trong lịch sử Việt Nam, NXB Đại học sư phạm
- Trần Xuân Sinh (2006), Thuyết Trần, NXB Hải Phòng
- Viện sử học (2007), Lịch sử Việt Nam, tập 3, NXB Khoa học xã hội
- Hoàng Ngọc Phách, Kiều Thu Hoạch (1988), Giai thoại văn học Việt Nam, NXB Văn học
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, bản điện tử
Chú thích
- ^ Do Hồ Sĩ Dương soạn vào thế kỉ 17
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư
- ^ a b Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục
- ^ Đại Việt sử ký toàn thư chép: “…bọn tôn thất Hãng, Trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, hành khiển Hà Đức Lân, Lương Nguyên Bửu, Phạm Ông Thiện, Phạm Ngưu Tất và các liêu thuộc, thân thích gồm hơn 370 người đều bị giết cả, tịch thu gia sản, con gái bắt làm nô tì, con trai từ 1 tuổi trở lên bị chôn sống, hoặc bị dìm nước. Lùng bắt dư đảng liền mấy năm không ngớt.”
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 403-404
- ^ Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 52
- ^ Trần Xuân Sinh, sách đã dẫn, tr 419
- ^ Con rể Quý Ly, đã bị ép nhường ngôi cho con là Thiếu đế lên làm Thái thượng hoàng, nhưng vẫn bị Quý Ly ép chết
- ^ Lê Quý Đôn, “Kiến văn tiểu lục”, NXB Văn hoá – Thông tin, 2007, tr.237
- ^ Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 103
- ^ Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 102
- ^ Trần Trọng Kim, sách đã dẫn, tr 77
- ^ Xem thêm bài Trần Duệ Tông
- ^ Văn Tạo, sách đã dẫn, tr 101
Liên kết ngoài
Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của: |
- Hồ Quý Ly
- Đi tìm mộ Hồ Quý Ly trên báo Tuổi Trẻ Online
|
- Sinh 1336
- Mất 1407
- Vua nhà Hồ
- Thái thượng hoàng nhà Hồ
- Quan nhà Trần
- Quan nhiếp chính Việt Nam
- Sơ khai Việt Nam
- Người cải cách Việt Nam
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám
|
|
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ do quân Liên hiệp Pháp kiểm soát. Đây là một trong 3 chiến dịch lớn trong đông-xuân 1950-1951.
Bối cảnh
-
Bài chi tiết: Ba chiến dịch tiến công 1950-1951
Tổng Tư lệnh Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chiến dịch Trần Hưng Đạo kết thúc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị tạm hoãn mở chiến dịch ở Liên khu 3 và chuyển hướng sang Đông Bắc. Trung ương Đảng Lao động xác định mục đích của chiến dịch: “Tiêu diệt sinh lực địch, phá kế hoạch chấn chỉnh pḥòng ngự của chúng và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Mục tiêu đề ra là diệt từ 6 đến 8 tiểu đoàn. Chiến dịch mang tên anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám. Bộ Tổng tham mưu đề ra hai phương án tác chiến để Bộ chỉ huy chiến dịch lựa chọn. Phương án 1 lấy đường số 17 và 18 làm hướng chính, hướng phụ là đường số 13. Phương án 2 lấy đường 13 làm hướng chính, hướng phụ là đường 17 và 18. Sau khi cân nhắc, Đảng ủy quyết định chọn hướng chinh của chiến dịch là đường 18, đoạn từ Băi Thảo đến Uông Bí, dài khoảng 50 km”[2]
Phương châm chiến dịch là “Đánh điểm diệt viện”, tiêu diệt sinh lực địch và phát triển chiến tranh du kích. Đây là một trong những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên của QĐNDVN đánh vào phòng tuyến Boong ke kiên cố của De Lattre de Tassigny (Đờlát Đờtátxinhi) ở Bắc Bộ.
Công tác kế hoạch hậu cần phải tính toán nhu cầu vật chất với việc điều tra nắm vững nguồn và kế hoạch huy động nhân vật lực. Để hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho chiến dịch trong một thời gian ngắn, chỉ có 25 ngày. Phòng Cung cấp chiến dịch đã chủ động tổ chức lực lượng quan hệ với các địa phương trong địa bàn chiến dịch để nắm tình hình công tác chuẩn bị hậu cần cho chiến dịch và khả năng cung cấp nhân lực, vật lực, dự kiến nhu cầu vật chất cho chiến dịch về lương thực, vũ khí, đạn, thuốc men, tài chính, dân công phục vụ…[3]
Lực lượng tham chiến
QĐNDVN sử dụng 2 đại đoàn (308, 312), 2 trung đoàn (98, 174), 4 đại đội pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích mở chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ trên đường số 18 (đoạn Phả Lại – Uông Bí); đồng thời huy động 2 đại đoàn (304, 320) đánh du kích ở vùng trung du và đồng bằng Liên khu 3 để phối hợp với chiến dịch Đường số 18. Trong chiến dịch, cả ở vùng tự do và vùng Pháp tạm chiếm, đã huy động hơn 2.200 tấn lương thực, 1.000 con trâu, bò, lợn. Hơn 110.000 lượt dân công quy thành 1.288.000 ngày công phục vụ chiến dịch.
Phía Pháp có Binh đoàn cơ động số 6, về sau tăng cường thêm tiểu đoàn 6 dù (6è BPC), yểm trợ bởi pháo binh và cơ giới, cùng quân đồn trú của Quốc gia Việt Nam. Tổng số lực lượng ở khu vực đường 18 là 11 tiểu đoàn (kể cả GM7 đứng chân ở Phả Lại) và hai đại đội pháo 105mm (tám khẩu) đặt ở Đông Triều.
Diễn biến
Đêm ngày 23 tháng 3 năm 1951, mở đầu chiến dịch, QĐNDVN diệt gọn 3 vị trí Lọc Nước, Đập Nước, Sống Trâu, san bằng vị trí Lán Tháp. Tiểu đoàn 23 tiến công bốt Lọc Nước do một trung đội Pháp chiếm đóng, gặp nhiều khó khăn, bộ đội bị thương vong lớn (45 hy sinh, 125 bị thương). Tiểu đoàn 322 diệt hai vị trí Đập Nước và Sống Trâu, không có chiến sĩ nào bị thương vong. Trung đoàn 174 của Đại đoàn 316, cùng một liên đội pháo đánh vị trí Lán Tháp, diệt 14 lính, bắt 11, thu 22 súng các loại. Toàn bộ những bốt bảo vệ hệ thống dẫn nước ngọt từ Vàng Danh về Hải Phòng đều bị tiêu diệt.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đánh thẳng vào thị trấn Uông Bí nằm trên đường 18. Các cầu trên đường 18 đều bị phá. Đường 18 bị cắt đứt một đoạn dài 40 km. Đập nước cung cấp nước ăn cho Hải Phòng bị phá huỷ, đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng bị cắt nhiều nơi, kế hoạch của QĐNDVN là khi nguồn nước ngọt duy nhất bị đe đoạ sẽ buộc quân ứng chiến của Pháp phải kéo tới. Hai trung đoàn 36, trung đoàn 102, bố trí đánh viện binh từ Uông Bí lên Lán Tháp, Đại đoàn 312 ở Trại Cao, Trung Lương, Linh Trung, đón đánh Pháp từ Đông Triều lên, nhưng Pháp chỉ hoạt động thăm dò và tăng cường lực lượng cho các vị trí có thể bị uy hiếp.
Đêm 25 tháng 3, trung đoàn 98 diệt vị trí Chấp Khê. Đêm 27 tháng 3, trung đoàn 102 Đại đoàn 308, được tăng cường hai liên đội pháo tổ chức bốn mũi tiến công Bí Chợ, một vị trí mạnh nằm cạnh đường 18, có khoảng 150 lính Âu – Phi. Đồn Bí Chợ hoàn toàn bị diệt sau 45 phút, pháo binh Pháp không kịp chi viện. Trong trận này Pháp chết 120 lính, bị bắt 50 lính Âu – Phi; QĐNDVN thu ba súng 12,7mm, một súng cối 81mm, ba súng cối 60mm, 10 tiểu liên, 25 súng trường, một vô tuyến điện. QĐNDVN mất 30 chiến sĩ, bị thương 185 người. Cũng trong thời gian này, trung đoàn 36 diệt vị trí Phán Huệ. Trung đoàn 141 Đại đoàn 312, được một liên đội pháo chi viện, đánh vị trí Tràng Bạch, diệt 73 lính, bắt 5, thu một súng cối 81mm, một súng 12,7 mm, chín tiểu liên và một số súng trường.
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám diễn ra trong lúc Đờ Lát không có mặt ở Đông Dương. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tiêu diệt Mạo Khê, trận đánh sẽ diễn ra vào đêm ngày 29.
Trong ngày 29, có tin Đờ Lát đã từ Pari trở lại Hà Nội, và tăng cường cho Mạo Khê Phố tiểu đoàn 6 dù thuộc địa (6è BPC), đưa quân số ở đây từ 150 tăng lên 700 lính. QĐNDVN quyết định ngừng tấn công Mạo Khê. Nhưng mệnh lệnh không tới kịp trung đoàn 36 trước giờ nổ súng. Suốt từ 3 giờ sáng đến trưa ngày hôm sau, QĐNDVN tấn công nhiều đợt nhưng nhờ không quân và pháo binh chi viện mạnh mẽ nên quân Pháp trong đồn vẫn giữ vững và đến 4 giờ chiều khi quân nhảy dù của đại tá Sizaire tới cứu viện. Các đợt tấn công của QĐNDVN bị đẩy lùi, thương vong gần 500 người, trong khi quân Pháp tổn thất 40 chết và 150 bị thương.[4] Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy các vị trí còn lại trên đường 18 đã được tăng cường, nên quyết định kết thúc đợt 1.
QĐNDVN quyết định chuyển sang đợt 2, tiếp tục đánh một loạt vị trí do các đại đội Pháp chiếm đóng. Những mục tiêu được chọn lần này đều nằm trên đường 17.
Ngày 1 tháng 4, địch tăng cường cho Đông Triều hai tiểu đoàn và điều một phần GM4 từ Lục Nam xuống Phả Lại.
Đêm ngày 4 tháng 4 năm 1951, QĐNDVN nổ súng đánh Bến Tắm, Bãi Thảo, Hoàng Gián, Hạ Chiêu. Nhưng cả 4 trung đoàn đều đột phá không thành công. Trung đoàn 88 đánh Bãi Thảo, chiếm được hai đồi, diệt hơn 100 lính. Quân Pháp cố thủ ở hai đồi còn lại. Đến 4 giờ 30 phút ngày 5 tháng 4, QĐNDVN rút quân vì trời sắp sáng, lại thương vong nhiều (hy sinh 50, bị thương hơn 100 chiến sĩ). Trung đoàn 209 đánh Hoàng Gián, chiếm được hai phần ba đồn, diệt gần 50 lính, hy sinh 5 chiến sĩ, bị thương 34 người. Trung đoàn 98 đánh Hà Chiêu, diệt 13 lính, hy sinh mất 13 người, bị thương 69. Trung đoàn 102 đánh Bến Tắm cũng không thành công, do tổ chức thiếu chu đáo, nên nổ súng chậm, trời sáng, buộc phải rút.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: “Thất bại của các trận đánh không phải do quân đồn trú của địch có công sự phòng ngự vững chắc hoặc kiên quyết đối phó, mà chỉ vì chúng đã dựng lên một hàng rào lửa bằng đại bác quanh cứ điểm, ngăn những đợt xung phong của ta”[5]
Nắm được tình hình này, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên báo cáo với Tổng tư lệnh là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lập tức ra lệnh dừng chiến đấu và kết thúc chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Ngày 7/4/1951, chiến dịch Hoàng Hoa Thám kết thúc.
Kết quả
Sau hơn 2 tuần chiến đấu, QĐNDVN tuyên bố loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.900 quân địch, diệt và bức rút hơn 130 vị trí tháp canh, bức rút 3 vị trí ở vùng mỏ giàu có là Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch. Trong thời gian hơn nửa tháng đã tiêu diệt được một phần binh đoàn cơ động thứ 6 và phá vỡ một mảng hệ thống phòng ngự trên đường số 18, 20, 21. QĐNDVN thu được 409 súng các loại, phá huỷ 49 xe cơ giới, 6 xe tăng và thiết giáp. Nhưng cũng có những trận QĐNDVN đã không thành công, toàn chiến dịch bị thương vong tới 2.262 người[1].
Để đánh giá, rút kinh nghiệm từ chiến dịch nói trên, Quân ủy Trung ương đã tổ chức một hội nghị kiểm điểm, nhìn nhận lại chiến thuật chiến dịch trong tấn công đồn địch. Bộ Tổng Tư lệnh đã tổ chức rút kinh nghiệm, chỉ rõ do công tác chuẩn bị chưa tốt, nhất là việc nắm địch chưa chắc, cách đánh chưa linh hoạt, nặng về đánh điểm, sử dụng lực lượng phân tán. Chiến dịch Hoàng Hoa Thám bộc lộ trình độ chỉ huy của cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chiến đấu quy mô tập trung lớn. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến của đại đoàn chưa hình thành rõ ràng, cơ sở vật chất chuẩn bị không chu đáo do đó bộc lộ nhiều lúng túng, mất dần thế chủ động khi gặp khó khăn, dẫn đến tổn thất lớn. Nguyên nhân chính là ở trong sự chuẩn bị chiến trường thiếu sót, là ở trong sự chấp hành mệnh lệnh của cán bộ có khuyết điểm[6]
Tại hội nghị kiểm thảo chiến dịch, chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và phát biểu: “Các chú ai cũng có khăn mặt. Có chú phong lưu hơn lại có thêm miếng xà phòng. Khăn mặt và xà phòng dùng để tắm rửa cho sạch. Về tinh thần và tư tưởng cũng cần phải có khăn mặt và xà phòng để rửa cho sạch, nghĩa là phải phê bình và tự phê bình. Trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau, phê bình mình là chính, phê bình người là phụ. Có đề cao tự phê bình và triệt để tự phê bình mới tẩy rửa được tinh thần và tư tưởng cho thật sạch. Ngày mai các chú họp phải tự phê bình thật nghiêm khắc về các khuyết điểm, rồi ra sức sửa chữa cho bằng được… Tự phê bình là cần, nhưng tự phê bình phải tăng cường đoàn kết, rút ra được bài học kinh nghiệm, xây dựng được lòng tin vào chiến dịch sau”[7].[8]
Về phía Pháp, sau trận Mạo khê, De Lattre lợi dụng thành công để thuyết phục Bảo Đại xúc tiến gấp việc thành lập quân đội Quốc gia Việt Nam. Ngày 19-4-1951, De Lattre mời thủ tướng Trần Văn Hữu và các bộ trưởng trong chính phủ Quốc gia Việt nam lên Vĩnh Yên để thị sát chiến trường. Tại đó, De Lattre cho đọc bài diễn văn ca ngợi Quốc gia Việt Nam. Bảo Đại và chính phủ Hữu đã đồng ý với De Lattre xúc tiến việc thành lập quân đội Quốc gia Việt Nam. Tiểu đoàn đầu tiên được thành lập với những sĩ quan và hạ sĩ quan chuyển từ Trung đoàn 1 Khinh binh Pháp, trong đó có trung úy Bernard de Lattre de Tassigny chỉ huy một đại đội, Bernard chính là con trai của tướng De Lattre.
Tài liệu tham khảo
- Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ.
- Lê Trọng Tấn, Từ Đồng Quan đến Điện Biên.
- Trần Thái Bình, Võ Nguyên Giáp trong cuộc trường chinh thế kỷ. NXB Sài Gòn giải phóng.
- Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam.
- Hữu Mai, Không phải huyền thoại.
- Viện Sử học, Việt Nam-Những sự kiện lịch sử (1945-1975).
Chú thích
- ^ a b c Bộ Quốc phòng: Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam // Bộ Quốc phòng 1945-2000 (Biên niên sự kiện).- H.: Quân đội Nhân dân, 2003.- tr. 117.
- ^ Đảng ủy quân sự Trung ương – Bộ Quốc phòng (Trần Trọng Trung- chủ biên); NXB: 2004; Một số văn kiện chỉ đạo chiến cuộc Đông – Xuân 1953 -1954 và Điện Biên Phủ; NXB: Quân đội nhân dân. trang 716-717
- ^ Đại tá Đỗ Đắc Yên, Tổ chức, bảo đảm hậu cần cho chiến dịch
- ^ Archimedes L.A.PATTI ; NXB 1995 ; Why VIET NAM ? (Tại sao Việt Nam?) NXB Đà Nẵng
- ^ Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biện Phủ, Nxb QĐND, H- 1999.
- ^ Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Bộ Tổng tham mưu Xb 1963, t. 1, tr.205.
- ^ Trích báo QĐND ngày 4-5-1951
- ^ Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1995, tr.44.
Liên kết ngoài
- Về thăm Ngọc Thanh – Mảnh đất chiến khu xưa
- Nguyễn Văn Bồng, Trận chiến núi Đanh
- Nguyễn Ngọc Lan, Chiến dịch Trần Hưng Đạo Mở lối cho cách đánh vận động chiến
- PGS.TS. Đỗ Văn Trụ, Hội thảo khoa học “Tam Đảo – Di sản Văn hóa và tiềm năng du lịch” – Báo cáo đề dẫn: Tam Đảo – Di sản Văn hóa và tiềm năng du lịch
- Văn Tùng, Thanh niên xung phong tiến lên Tây Bắc
- Hà Vân, Sư đoàn 312:60 năm vẻ vang… một hoa giáp!
- Ghi chép của Quân Thủy – Hoàng Hà, Trọn tấm lòng “lương y như từ mẫu” (Kỳ 1)
- Nguyễn Văn Thuyết, Truyền thống lực lượng vũ trang tỉnh Vĩnh Phúc
- Nguyễn Xuân Lân, Ngày 12 tháng 2 năm 1950: Một mốc son trong lịch sử kháng chiến chống pháp của tỉnh Vĩnh Phúc 15/4/2010, tạp chí VH, TT & DL Vĩnh Phúc
Anh em nhà Wright
Anh em nhà Wright | |
---|---|
Sinh | Orville: 19 tháng 8, 1871, Dayton, Ohio Wilbur: 16 tháng 4, 1867, Millville, Indiana |
Mất | Orville: 30 tháng 1, 1948 (76 tuổi), Dayton Wilbur: 30 tháng 5, 1912 (45 tuổi), Dayton |
Dân tộc | Đức, Hà Lan, Anh |
Công việc | Orville: Nhà in/nhà xuất bản, bán lẻ/sản xuất xe đạp, sáng chế/sản xuất máy bay, phi công Wilbur: Sửa chữa, bán lẻ/sản xuất xe đạp, sáng chế/sản xuất máy bay, phi công |
Chồng/vợ | Độc thân (cả 2) |
Anh em nhà Wright là hai anh em người Mỹ gồm Orville Wright (19 tháng 8, 1871 – 30 tháng 1, 1948) và Wilbur Wright (16 tháng 4, 1867 – 30 tháng 5, 1912), là những người đầu tiên thử nghiệm thành công cho máy bay bay được.[1]
Chuyến bay đấu tiên trong lịch sử nhân loại được thực hiện vào ngày 17 tháng 12 năm 1903 tại đồi Kill Devil, Kitty Hawk, bang Bắc Carolina, Mỹ. Mỗi anh em thực hiện hai chuyến bay vào ngày hôm đó. Lần bay đầu tiên, do Orville thực hiện kéo dài 12 giây và bay được khoảng 36.5 mét(120 ft). Lần bay cuối cùng, do Wilbur thực hiện kéo dài 59 giây và đi được 296 mét.[1] Chiếc máy bay lúc đó được gọi là Flyer I. Nó có sải cánh khoảng 12 mét và nặng khoảng hơn 300 kg, với động cơ xăng 12 mã lực. Hiện nay nó đang được đặt tại Viện bảo tàng Hàng không và Không gian Quốc gia Hoa Kỳ tại Washington, D. C..
Tuy chiếc máy bay chưa thể tự cất cánh mà phải nhờ một thiết bị phóng bằng vật nặng cho thả rơi và khi cất cánh, hạ cánh phải lựa theo chiều gió, nhưng sự kiện này đã gây ra được tiếng vang dư luận rất lớn. Thiên tài của hai anh em nhà Wright đã biến giấc mơ từ ngàn xưa của loài người thành sự thật.
Hai anh em nhà Wright đã thành lập cho chính mình một hãng máy bay. Nhưng sau đó do bị cạnh tranh khốc liệt với các nhà kinh doanh máy bay khác, cộng thêm Wilbur bị mắc bệnh và qua đời nên Orville đã bán hãng sản xuất máy bay Wright với giá ít ỏi.
Tham khảo
- ^ a b “Telegram from Orville Wright in Kitty Hawk, North Carolina, to His Father Announcing Four Successful Flights, 1903 December 17”. World Digital Library. 17 tháng 12 năm 1903. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2013.
Liên kết ngoài
Phương tiện liên quan tới Wright brothers tại Wikimedia Commons
- (tiếng Anh) Kitty Hawk – Kill Devil Hills Wright Brothers Photographs 1900-1911 – Library of Congress
- (tiếng Anh) Plane truth: list of greatest technical breakthroughs in manned flight
- (tiếng Anh) Wilbur Wright Birthplace Museum
- (tiếng Anh) Wright Brothers Aeroplane Company
- (tiếng Anh) Some Aeronautical Experiments by Wilbur Wright, to Western Society of Engineers Sept. 18, 1901
- (tiếng Anh) Wright Aeronautical Engineering Collection
- (tiếng Anh) FirstFlight – flight simulation, videos and experiments
- (tiếng Anh) Analysis of Wright Brothers’ work
- (tiếng Anh) AeroSpace Show – RTP-TV 2003 Video Tour of Wright Brothers Monument at Kill Devil Hills
- (tiếng Anh) PBS Nova: The Wright Brothers’ Flying Machines
- (tiếng Anh) National Park Service, Wright Brothers’ Memorial
- (tiếng Anh) Smithsonian Stories of the Wright flights
- (tiếng Anh) Scientific American Magazine (tháng 12 năm 2003 Issue) The Equivocal Success of the Wright Brothers
Bài viết về chủ đề hàng không này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn. |
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về Anh em nhà Wright |
Video yêu thích
http://www.youtube.com/user/hoangkimvietnam
Trở về trang chính
Hoàng Kim, hoangkim, hoangkimvietnam, Ngọc Phương Nam, Chào ngày mới Thung dung, Dạy và học, Cây Lương thực, Tin Nông nghiệp Việt Nam, Food Crops, Cassava in Vietnam, Khát khao xanh, Dayvahoc, Học mỗi ngày, Danh nhân Việt , Food Crops News, Điểm chính, CNM365, Kim LinkedIn, KimTwitter, KimFaceBook Đọc lại và suy ngẫm, Việt Nam tổ quốc tôi, Tình yêu cuộc sống, Thơ cho con
2014-03-22 06:52:06
Nguồn: http://khatkhaoxanh.wordpress.com/2014/03/22/chao-ngay-moi-23-thang-3/