Ý kiến 1. Quay lại từ thời Thượng cổ, bình minh của loài người, thì con người đã phải quan sát chu kỳ thiên nhiên trong việc xác định thời gian. Chu kỳ mọc lặn của Mặt trời = 1 ngày, quá ngắn. Chu kỳ mùa nóng lạnh = 1 năm quá dài.
Chu kỳ hợp lý và dễ nhận thấy nhất chính là chu kỳ Tròn – Khuyết của Mặt Trăng. Và chu kỳ Mặt Trăng đã trở thành mốc xác định thời gian chuẩn cho hầu hết các hoạt động của con người trong mọi nền văn minh.
Nếu như quay lại lịch sử, thì tất cả các nền văn minh trên thế giới đều có lịch đầu tiên là Lịch Mặt Trăng, nghĩa là Ngày Trăng non và ngày Trăng tròn (Mồng Một và Rằm) là chuẩn thời gian từ hàng nghìn năm trước rồi: Lịch Babylon, Lịch Do Thái, Lịch Hồi giáo, Lịch Trung Quốc, Lịch Hy Lạp, Lịch La Mã.
Tất cả các loại lịch trên đều dựa trên Mặt Trăng, lấy Tròn Khuyết làm chuẩn. Sau đó kết hợp thêm Mặt Trời, hoặc chuyển hẳn sang lịch Mặt Trời như La Mã. Chỉ có lịch Ai Cập và Hindu là dựa trên các ngôi sao (không dựa vào Mặt Trời).
Từ đấy, dễ thấy trong hầu hết các nền văn minh, thì ngày Trăng non và Trăng tròn đều là ngày quan trọng, ngày dành cho hội họp, họp chợ, cưới hỏi, và đặc biệt là Tế lễ.
Từ xa xưa, hầu hết các lễ tế Thần của các dân tộc đều thực hiện vào ngày Rằm.
Người Hindu làm lễ ngày Rằm thậm chí từ 2000 năm trước khi Phật ra đời. Phật giáo chỉ sử dụng những gì đã có trong nền văn minh Vệ Đà. Tại TQ, từ thời Thương, Chu, cả nghìn năm trước CN, các lễ tế Thần, tổ tiên được tổ chức vào ngày Rằm. Về sau khi có Âm-Dương lịch mới chuyển sang tế trời đất. Vào Xuân phân, Thu phân, Rằm và Mồng Một là ngày thiết đại triều của các triều đại. Người Babylon cổ cũng vậy.
Dùng lịch Mặt Trăng và tôn sùng ngày trăng tròn, trăng non hiện nay thì người Hồi giáo còn sùng kính hơn người Việt Nam. Hồi giáo đến tận giờ vẫn hòan toàn dùng lịch Mặt Trăng, nên năm của họ chậm hơn năm Dương lịch đến gần 40 năm. Tháng Ramadan được tính từ ngày đầu tiên sau ngày Trăng khuyết hết của tháng mà Muhamad đã viết kinh Koran.
Ngày Phục sinh cũng là dấu vết của lịch Mặt Trăng Do Thái cổ, hòa với lịch Mặt Trời.
Ý kiến 2
1. Nhìn từ góc độ lịch sử
Để giải quyết vấn đề này chúng ta đặt nó trong bối cảnh nó ra đời, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra lý do tại sao. Vấn đề ăn chay như là một pháp môn tu đầu tiên, tối thiểu cho các Phật tử tại gia, mỗi tháng ăn chay 2 ngày là kể đến công của các bậc Tổ Sư Phật giáo Đại thừa. Các nhà Đại thừa thực hiện rất đúng tôn ý của Đức Phật. Để khuyến khích Phật tử hạn chế nghiệp sát và phát triển bi tâm, trong buổi đầu tu học Phật, chư Tăng Đại thừa đã chọn các ngày trong tháng như mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30 để tiêu chuẩn hoá các ngày ăn chay tuỳ theo sự phát tâm của mỗi người, 2 ngày, 4 , 6, hoặc 10 ngày. Theo truyền thống của cả Nam truyền và Bắc truyền, vào ngày đầu tháng (mùng một) và ngày trăng tròn (rằm) chư Tăng của hai truyền thống đều tụ họp lại tại một trú xứ nào đó gần nhất để lắng nghe vị cao đức trùng tuyên giới luật và để phát lồ sám-hối những điều sai lầm mà đã lỡ tạo. Đây là truyền thống có từ thời Phật còn tại thế. Do đó, việc chư tăng hội họp lại vào ngày đầu tháng và rằm để kiểm thảo, nhắc nhở lẫn nhau, hai ngày này trở thành ngày hội của chư Tăng lúc bấy giờ. Và cũng từ đó, hai ngày này có ý nghĩa quan trọng trong Phật giáo không những cho hàng xuất gia mà cả cho hàng cư sĩ tại gia. Sau này các bậc Tổ sư đã giới thiệu 2 ngày (mùng một và rằm) hàng Phật tử tại gia không nên dùng huyết nhục của loài động vật và cũng để nuôi lớn lòng bi mẫn đối với chúng sanh.
Như vậy tại sao Đức Phật không chọn ngày khác mà lại chọn vào ngày đầu tháng và giữa tháng âm lịch ?
Việc thành lập truyền thống tụng giới của Tăng đoàn của Phật cũng rất là vì nhu cầu chung. Đức Phật không bao giờ đặt ra một đạo luật, giới điều để thiết chế tăng đoàn khi sự kiện đó chưa xảy ra. Ngày Bố-tát (Uposatha// Observance day) cũng tương tự, không phải do Đức Phật tự đặt ra, mà do vua Seniya Bimbisàra (Tần-bà-sa-la) thưa với Đức Phật truyền thống tổ chức tốt đẹp của các giáo phái khác, họ biết quy tụ vào ngày mùng 8, 14, 15 của nửa tháng đầu, tương tự tụ họp vào ngày 23, 29 và 30 cho nửa tháng sau ở tại một nơi để thuyết giảng giáo thuyết của họ cho tín đồ. Đức Phật đã lắng nghe lời thưa của vua Seniya Bimbisàra và đã dạy bảo các vị Tỳ-kheo cũng tụ họp lại vào những ngày giống như truyền thống của các tôn giáo khác để kiểm thảo và tụng Giới bổn (Pà.timokkha). Câu chuyện này được ghi lại trong Đại Phẩm (Mahavagga) thuộc Luật Tạng (The Book of Discipline, vol. IV tr. by I.B. Honer, Oxfort: The Pali Text Society, 1993, pp. 130f). Cũng theo câu chuyện trên, Đức Phật không rập khuôn với những truyền thống khác mà chỉ cho phép các vị Tỳ-kheo tụng giới và kiểm thảo vào ngày 14 hoặc ngày 15, và tương tự cho nửa tháng sau là cuối tháng hoặc đầu tháng tới. Đó là nguyên nhân Phật giáo có ngày hội họp vào 14, hoặc 15, cũng như 30 cuối tháng hoặc đầu tháng (mùng một) của mỗi tháng.
Như vậy thì tại sao khi các Phật tử phát tâm ăn chay một tháng 4 ngày, 6 ngày, hoặc 10 ngày thì lại chọn một vài ngày khác như là mùng 8,14 , 23, 24, 28 và 29 ?
Câu trả lời đơn giản là các ngày đó được phân bố đều trong tuần của tháng để nhắc nhở các Phật tử thường xuyên tu tập tâm từ bi đến với các loài động vật mà không nỡ giết để làm thực phẩm cho mình và đấy cũng là phương pháp gieo nhân lành, tránh nghiệp sát để kiếp sau khỏi phải trả nợ máu cho chúng sanh. Truyền thống này cũng được các Phật tử tại Ấn Độ thời đó đã thực hiện tu tập Bát Quan Trai Giới (thọ trì 8 giới, tập tu giống như một vị xuất gia trong một ngày) ngay khi Phật còn tại thế qua nhiều câu chuyện trong Chuyện Tiền Thân của Đức Phật (Jàtaka).
Hơn nữa, chúng ta thấy dân tộc Trung Hoa rất chú trọng đến ngày mới của một năm, một mùa hoặc một tháng, thậm chí giờ mới của một ngày, đó cũng là lý do tại sao các vị Tổ Sư lại chọn ngày mùng một không chọn ngày 30. Còn ngày rằm cũng vậy, gần như các nước trên thế giới, khi nền khoa học điện quang chưa phát triển, họ đều lấy ngày ấy như là ngày vui chơi, lễ hội, những ngày trao đổi tình duyên, v.v… Các bậc Thánh thời xưa đã khéo chọn ngày ấy để khuyên nhân dân làm lành, tu nhân tích đức. Thay vì họ tổ chức các lễ hội (có thể lành mạnh hoặc không lành mạnh) để mua vui, thì Phật giáo cũng có những tổ chức lễ hội để làm đẹp cuộc sống bằng chất liệu của chân, thiện và mỹ, chứ không nhắm đến cái “đẹp” như một số truyền thống lễ hội của các quốc gia hoặc của các bộ tộc của các nền văn minh thời cổ trung đại.
2) Nhìn từ góc độ vũ trụ học
Nếu câu trả lời dừng lại ở trên, chắc chắn độc giả chưa hài lòng vì những giải đáp đơn giản như vậy. Ở đây, xin đưa ra cách giải thích khác, đó là cách lý giải dựa theo nhịp sinh học của vũ trụ. Cách lý giải này, cách đây khoảng 5 năm, có một bài viết ngắn đăng trên Bán nguyệt san Giác Ngộ cũng đặt vấn đề tại sao Phật tử phải đi chùa vào ngày mùng một và ngày rằm âm lịch? Tác giả bài báo đó cũng trình bày vài điểm khá độc đáo do dựa theo chu kỳ của vũ trụ.
Cũng cần nên lưu ý, Đức Phật đặt căn bản giáo lý của Ngài trên nền tảng của tu tập đạo đức, tu tập tâm thức và hướng đến giải thoát, giác ngộ tối thượng, chứ không hướng mục đích giáo pháp của Ngài đến những vấn đề triết lý siêu hình hay giải thích về những hiện tượng đa phức của vũ trụ. Nhưng những khoa học gia phương Tây ngày nay và các Thần y lừng danh Trung Hoa đã khám phá ra rằng tất cả những gì Đức Phật giảng dạy cho đệ tử Ngài đặc biệt về ăn, uống, ngủ nghỉ, các tư thế đi, đứng, ngồi, nằm không những phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay mà còn đi trước những thành tựu khoa học và khoa học còn phải tiếp tục khám phá nhiều hơn nữa mới hy vọng bắt kịp với hệ thống triết học nhân sinh của Phật giáo.
Đức Phật dạy, con người do các duyên mà thành, thế giới vạn hữu này cũng do các duyên mà thành, tất cả đều cộng trụ tương sanh và tương diệt. Sự hiện hữu của cái này cũng là sự hiện hữu của cái kia, sự vắng mặt của cái này cũng là sự vắng mặt của cái khác, đây là định lý “duyên khởi pháp”. Mọi sự vật hiện tượng đều tác động và chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
Các nhà đại thần y Trung Hoa xa xưa đã đưa ra lý thuyết sự vận hành các nhâm mạch của con người cũng như sự vận hành 4 mùa của Trời Đất (Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn) để vận dụng trong cách trị liệu của mình và khuyên con người nên sống đúng theo vận hành trời đất để tăng thêm tuổi thọ và làm đẹp cuộc đời. Ngày nay các nhà y khoa phương Tây đã tính ra được nhịp sinh học của mỗi người, vào giờ nào con người có thể hưng phấn nhất trong một ngày, tương tự giờ nào có thể xuất hiện những âm tính như quạu, cáu, gắt, khó chịu, buồn, giận, v.v… nhiều nhất.
Tương tự, nhịp sinh học của trái đất, của mặt trăng và mặt trời, nói chung là các thiên thể cũng có những chu kỳ nhất định. Hiện tượng trăng tròn và trăng khuyết có ảnh hưởng đến thuỷ triều và các con nước ròng của các con sông và ngay cả những sóng ngầm dưới lòng đất. Không những các hành tinh xa lắc xa lơ đó tác động mạnh đến các yếu tố môi trường chung quanh của con người mà ngay cả chi phối, điều động cả con người. Ta có thể lấy một ví dụ bệnh phong cùi, hen, suyễn, đều chịu ảnh hưởng rất lớn của các biến động trời đất, như trăng tròn và khuyết và sự thay đổi bốn mùa! Cho nên triết học vũ trụ quan của người Trung Hoa rất nhấn mạnh mối liên hệ hỗ tương giữa các Thiên thể, hành tinh của chúng ta và con người (thiên địa nhân tương ứng).
Theo các nhà thống kê về tội phạm và tai nạn giao thông (rất tiếc là không có con số và thông tin cụ thể ở đây!), phần lớn các tội phạm và tai nạn thường xảy ra nhiều nhất vào những ngày đầu tháng, cuối tháng và những ngày trăng tròn. Nếu chúng ta quan sát kỹ thì chính dòng máu của chính bản thân của ta cũng bị chi phối bởi mặt trăng tròn và khuyết và những tánh tình kỳ cục nhất thường xảy ra vào những ngày ấy.
Do đó, thật là kỳ diệu, các vị Thánh triết thời cổ đại đã chọn những ngày như vậy để khuyên mọi người nên tu nhân tích đức. Truyền thống Phật giáo hay tổ chức lễ hội vào ngày đầu tháng và ngày rằm và khuyên mọi người nên ăn chay để tránh được tối đa những hội chứng tâm lý bất thiện có thể phát sinh.
Để hiểu triệt để những vấn đề huyền bí trên, chúng ta không thể giới hạn trong những tác phẩm thuộc Ấn Độ học mà phải mò mẫm trong các tác phẩm cổ điển Trung Hoa về y dược và Dịch học cũng như những phát minh của khoa học về mối liên hệ mật thiết giữa thiên nhiên và con người. Nhưng vấn đề khó ở đây, muốn hiểu triệt để những vấn đề trên, đòi hỏi người nghiên cứu phải có vốn ngôn ngữ và chuyên ngành về lãnh vực đó, mới hy vọng có thể hiểu vấn đề kha khá được.
Một trong số tài liệu tham khảo tổng quát bằng tiếng Việt về các vấn đề huyền bí của vũ trụ, ngày giờ, tương sinh tương khắc và nhiều thông tin trên cơ sở đó có thể đưa ra kết luận được đó là bài khảo cứu của tác giả Nguyễn Hoàng Điệp, cũng là thư ký biên soạn cuốn gần như bách khoa: Almanach Những Nền Văn Minh Thế Giới (Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Hoá –Thông Tin, 1996, từ trang 520 đến 529). Thầy trích lại những đoạn khá độc đáo sau:
Trong vũ trụ, mặt trời cùng với môi trường bao quanh nó liên tục truyền cái trật tự của mình tới tất cả những gì trên Trái đất, Mặt trăng, một vật thể gần Trái đất nhất, cũng gây ảnh hưởng tới Trái đất. Mọi sinh vật và cả những đồ vật vô tri vô giác đều “hưởng ứng” với nó và thay đổi cùng với nó. Các con sông thay đổi theo dòng cùng ánh sáng Mặt trăng, các đại dương thay đổi các đợt sóng triều theo sự mọc và lặn của Mặt trăng. Các đợt “triều lên” không chỉ bao gồm nước của biển và đại dương mà còn cả lớp không khí của Trái đất, và lớp vỏ cứng (mặt đất) cũng có hiện tượng “triều lên -xuống”, hiện tượng “triều lên xuống” cũng diễn ra ngay trong sinh thể của con người và tất cả sinh vật nói chung.
Các nhà vật lý, y – sinh học và nhiều ngành khoa học đã phát hiện ngày một nhiều những nhịp điệu có chu kỳ khác nhau diễn ra trong cơ thể của con người: chu kỳ ngắn nhất có thể từ vài phần giây đến vài giây, như tần số của những dòng điẹn sinh học, nhịp tim, nhịp thở, nhu động đường ruột, sóng điện não (chừng xấp xỉ một giây). Nhưng nhịp điệu này có thể thay đổi theo thời gian trong ngày, theo thời tiết và môi trường. Có chu kỳ kéo dài từ vài chục phút tới vài giờ, như chức năng cua thận, của máu, và hoạt động trí óc…
…Có những nhịp điệu dài hơn 24 giờ, như nhịp điệu tháng, năm… được chi phối bởi ảnh hưởng của Mặt trời và Mặt trăng . Mặt trời quay xung quanh trục của nó trung bình là 27,3 ngày. Còn Mặt trăng quay xung quanh Trái đất là 29,5 ngày. điều đó cho ta tới chu kỳ hoạt động sinh vật trên Trái đất, điển hình là chu kỳ rụng buồng trứng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, nhịp điệu sinh lý – thụ thai ở con người, và chu kỳ động hớn của động vật… đều có liên quan với chu kỳ chuyển động của Mặt trăng nhiều hơn. Chính vì thế, thời cổ xưa đã cho rằng Mặt trăng là thần của ái tình, thần của dục khí, thần của tâm hồn… như vậy hiện tượng này đã được phát hiện từ rất xưa.
Dưới tác dụng sức hút của Mặt trăng, trong con người cũng diến ra thuỷ triều học . Sự i-on hoá của khí quyển, hoặc sự biến động về từ trường của Trái đất đều lệ thuộc vào các pha của mặt trăng. Theo các quan sát này, đối chiếu với số thống kê cho thấy, con số các rối loạn về tâm lý, trạng thái sinh lý mạnh mẽ đều tăng vọt vào đầu tuần trăng và giữa tuần trăng trong khi những biểu hiện về trạng thái thần kinh não, tim mạch lại chịu tác động mạnh mẽ với vòng quay (chu kỳ) của Mặt trời, và xuất hiện những tai biến đối với con người, xã hội cũng gia tăng khác thường.
Như vậy, nhịp sinh học trên Trái đất nói chung, nhịp điệu sinh học của con người nói riêng có nguồn gốc từ nhịp điệu của vũ trụ, những ảnh hưởng của Mặt trời và Mặt trăng là yếu tố chính, chủ yếu, trực tiếp.
Có thể nói Con Người và Vũ trụ tuy hai nhưng mà một, tuy là một nhưng vẫn là hai. Đó là định lý thuận – nghịch, là mối quan hệ sinh biến tương đồng với nhịp điệu vũ trụ. Ít có nhịp điệu nào của vũ trụ bỏ qua con người và đời người. Phải chăng khoa học đương thời đã gặp lại những trí tuệ mà một thời từng huy hoàng ở phương Đông?
Ý kiến 3
Phong tục cúng rằm và mồng một (hay tập tục cúng sóc vọng) là do ảnh hưởng của ba nguồn tôn giáo Nho, Lão, Phật dung hợp mà ra. Theo truyền thống của Nho giáo và Lão giáo, ngày Sóc và ngày Vọng là ngày “Thiên Địa khai thông”, nghĩa là tất cả những chướng ngại giữa ba cõi Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân không còn, nên trời đất sẽ chứng giám cho hành vi của con người, ông bà tổ tiên sẽ cảm thông với lòng thành của con cháu qua lễ vật cúng dường, và quỉ ma ám chướng sẽ không tác hại ai. Còn đối với Phật giáo, hai ngày Sóc Vọng là ngày “Trường tịnh” hay ngày thanh tịnh nhất nên các hàng tu sĩ thì làm lễ Bồ Tát để tự kiểm điểm mình có giữ giới luật không, còn các phật tử thì làm lễ Sám hối cầu nguyện bỏ dữ làm lành. Do đó, phần lớn Phật tử thuần thành có tục ăn chay tối thiểu vào hai ngày này.
Nếu tra cứu kỹ trong tiểu sử của đời Phật Thích Ca, người ta thấy ngày rằm là một ngày quan trọng đối với Ngài:
Ngài đản sinh vào ngày rằm tháng Tư là ngày trọng đại nhất. Và qua bốn lần đi du lãm ngoại thành đến vườn Thượng uyển, mỗi lần cách nhau ba tháng, để chứng kiến những cảnh làm động tâm ngài mà xuất gia đều trúng vào ngày rằm: lần 1: vào ngày rẳm tháng 6 thì thấy người già ; lần 2: vào ngày rằm tháng 10, nhìn thấy người bệnh; lần 3: vào ngày rẳm tháng 2, nhìn thấy người chết; lần 4: vào ngày rẳm tháng 6, nhìn thấy một bậc xuất gia.
Theo lịch trình nghi lễ Phật giáo thì trong 12 ngày Vọng thì có năm ngày rằm quan trọng: – Rằm tháng giêng: Lể Cầu phúc, cầu an, hành hương. – Rằm tháng hai: Lễ Phật nhập Niết bàn – Rằm tháng tư: Lễ Phật Đản – Rằm tháng bẩy: Lễ Vu Lan – Rằm tháng mười: Lễ Cúng rằm hạ nguyên.
Khi cúng sóc vọng, bốn lễ phẩm cúng dường chính cho bàn thờ là: hương, đăng, hoa, quả. Về đốt hương, thì tục này du nhập từ Ấn độ vào Trung Hoa vào đời Hán Vũ Đế qua tục thờ tượng vàng của vua Hung Nô. Loại hương dùng gọi là “giáng hương” thì mới mời triệu được thần linh. Còn về đèn, thì nền văn minh Ấn có tục thờ lửa nên xem đèn như một nghi thức tối cần, vả lại đèn đuốc là một nhu cầu cho sự cúng dường về đêm. Tục cúng phẩm xôi chè và hoa quả là một nét thăng hoa văn hoá về ẩm thực vì đó là thành phẩm của nền kinh tế nông nghiệp cổ truyền của dân Việt. Những hồi kinh tụng niệm, những tiếng mõ, tiếng chuông qua hương khói và ánh nến lung linh là những lời mời gọi huyền diệu tìm về nơi Phật Pháp cho một triết lý cứu khổ trong cõi vô thường.