Để có phương tiện do thám Liên Xô, Mỹ đã bắt tay thử nghiệm chiếc máy bay U-2. Điều đáng nói, các vụ thử nghiệm chiếc máy bay này trong một thời gian dài đã khiến nhiều người lầm tưởng là đĩa bay.
Thử nghiệm U-2
Đầu thập niên 1950, căng thẳng của chiến tranh lạnh leo thang. Lúc đó, quân đội Mỹ muốn tăng cường do thám lãnh thổ Liên Xô sau khi Moscow tuyên bố đã có tên lửa đạn đạo liên lục địa có thể bắn tới Mỹ. Tuy nhiên, máy bay do thám của Mỹ lúc bấy giờ đa số là các máy bay ném bom được chuyển đổi nên dễ bị pháo phòng không bắn hạ. Ngay lập tức, Mỹ bắt tay vào nghiên cứu máy bay trinh sát tầm cao có thể vượt quá tầm với của radar và tên lửa Liên Xô.
Sau một cuộc gặp với Tổng thống Eisenhower, Tập đoàn Lockheed Aircraft nhận được một hợp đồng trị giá 22,5 triệu USD cho 20 chiếc máy bay đầu tiên. Những chiếc máy bay này sau đó được đặt tên là U-2, với biệt danh “Thiên sứ”.
Khu thử nghiệm hồ cạn Groom ở Vùng 51 được CIA thành lập để giúp tập đoàn Lockheed phát triển dự án máy bay trinh sát chiến lược U-2 vào tháng 4/1955.
Chiếc máy bay do thám U-2.
Là một phần của dự án, giám đốc Richard M. Bissell. Johnson hiểu rằng: do tính chất cực kỳ bí mật bao trùm các dự án, các chương trình thử nghiệm bay và đào tạo phi công có thể không được thực hiện tại căn cứ không quân Edwards hoặc cơ sở Palmdale của Lockheed. Một sự tìm kiếm cho quá trình thử nghiệm phù hợp với U-2 đã được tiến hành dưới sự bảo mật y hệt như phần còn lại của dự án.
Ông thông báo tới Lockheed và họ đã gửi một đoàn kiểm tra đến hồ Groom. Theo nhà thiết kế U-2 của Lockheed, lòng hồ là một loại đất lý tưởng để dải đường băng mà ở đó họ có thể kiểm tra, thử nghiệm các loại máy bay. Không những thế, thung lũng Emigrant với các dãy núi cách khoảng 100 dặm về phía bắc của Las Vegas tạo thành một hành lang bảo vệ sự bí mật của các cuộc thử nghiệm khỏi các sự theo dõi và thâm nhập.
Johnson gọi tên lòng hồ là khu vực “Paradise Ranch” (gọi tắt là “The Ranch”) mà lịch sử của CIA sau này đã ghi nhận đây là “cơ sở mới ở giữa hư không” trong dự án U-2.
Ngày 4/5/1955, một đoàn khảo sát đến hồ Groom và đặt một đường băng Bắc-Nam 5.000 foot (1.500 m) góc phía tây nam của lòng hồ. Vùng Site II, ban đầu bao gồm vài ngôi nhà, kho xưởng. Gần ba tháng sau, các cơ sở gồm có một đường băng duy nhất trải nhựa, ba nhà chứa máy bay, một tháp điều khiển và phòng thô sơ cho nhân viên kiểm tra và một số công trình phụ trợ khác. Tháng 7/1955, CIA, Air Force, và tập đoàn Lockheed cùng đến đây. Chiếc U-2 đầu tiên được bàn giao (24/7/1955) cho khu vực “The Ranch” từ Burbank trên 2 chiếc C-124 Globemaster kèm theo kỹ thuật viên của Lockheed .
Các chuyến bay vận tải quân sự từ khu vực 51 đến Burbank (văn phòng của Lookheed) đưuọc thiết lập và hoạt động rất thường xuyên để giữ gìn bí mật của dự án. Nhân viên của Lockheed bay đến Nevada vào các buổi sáng thứ hai và trở về California vào những buổi tối thứ sáu.
Trong tập tài liệu mà CIA tiết lộ, Kelly Johnson, một phi công lái thử nghiệm chiếc U-2 cho biết anh ta sử dụng la bàn để định ra các hướng của đường băng đầu tiên và tiến hành bay thử nghiệm: “Chúng tôi bay qua hồ trong vòng ba mươi giây và quan sát hồ cạn đấy. Chúng tôi đã xem xét rất kĩ hồ Groom và tất cả phi hành đoàn nhìn nhau. Nó giống như căn cứ Edwards thứ hai vậy, vì vậy chúng tôi tiếp tục bay lượn xung quanh vài vòng rồi hạ cánh trên mặt hồ đó và cuối cùng di chuyển đến điểm cuối của hồ. Đó là một cú hạ cánh hoàn hảo trên một sân bay tự nhiên bằng đất và nhẹ nhàng như một bàn bi-a”.
Máy bay U-2 trong quá trình bay thử nghiệm.
Đáng chú ý là với tầm bay cao hơn hẳn các máy bay cùng thời, U-2 đã khiến nhiều người nhầm tưởng là đĩa bay của người ngoài hành tinh. Theo tài liệu mới giải mật gần đây của CIA, nghi án đĩa bay (UFO) ở Na Uy cách đây 50 năm thực chất chỉ là chiếc U-2 của Mỹ.
Thiết kế độc nhất vô nhị đã khiến U-2 có những tính năng đáng khâm phục nhưng cũng khiến nó trở thành chiếc máy bay khó điều khiển. U-2 rất nhạy cảm với gió và rất khó hạ cánh. Để hỗ trợ phi công hạ cánh, một chiếc xe chuyên dụng cùng với người chỉ dẫn sẽ thông báo mức hạ độ cao của máy bay khi nó giảm tốc độ. Vì hoạt động ở tầm rất cao nên phi công phải mặc bộ quần áo bay theo kiểu chuyên dụng cho phi hành gia vũ trụ. Bộ đồ này có thể cung cấp khí ôxy và bảo hộ khẩn cấp trong trường hợp bị mất áp suất cabin ở trên cao.
Hoạt động do thám Liên Xô
U-2 chính thức được đưa vào hoạt động vào năm 1956 dưới sự quản lý của CIA. Ngày 4/7/1956, U-2 bắt đầu thực hiện sứ mệnh gián điệp đầu tiên tại vùng trời Liên Xô. Nhờ các ưu điểm của mình, U-2 đã khiến phòng không Liên Xô ôm hận suốt 4 năm trời và giúp Mỹ có những thông tin chính xác về tình hình Liên Xô. Những chiếc U-2 có thể hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, ở độ cao “không tưởng” (khoảng 21 km, gấp đôi độ cao của các máy bay thương mại) và làm nhiệm vụ không kể ngày đêm. Về thiết kế, U-2 là loại máy bay do thám một chỗ ngồi, một động cơ, thân dài, cánh rộng cùng với hệ thống cảm biến, camera độ nét cao, làm nhiệm vụ trinh sát.
Đến ngày 1/5/1960, trong một lần bay trinh sát, do nhiệm vụ thọc sâu vào lãnh thổ Liên Xô, chiếc U-2 do phi công Francis Gary Powers của CIA điểu khiển đã bị các chiến đấu cơ Liên Xô truy kích, trên đường trốn chạy, chiếc U-2 này lại bị 14 quả tên lửa SAM-2 đồng loạt xông tới. Lúc này, phi công Powers chỉ còn kịp nhấn nút thoát hiểm còn chiếc máy bay bị nổ tung trên trời.
Ngoài U-2 là loại máy bay đầu tiên và tiêu biểu được thử nghiệm tại Vùng 51, cũng còn rất nhiều các loại máy bay siêu thanh, tàng hình và hiện đại khác đưuọc thử nghiệm tại đây như M-12, SR-71, D-21… hay như các máy bay hiện đại tiên tiến hiện nay như F22 Raptor hoặc loại trực thăng black hawk cải tiến tham gia chiến dịch tiêu diệt Osama Binladen…
Không chỉ là nơi thử nghiệm các vũ khí bí mật, Vùng 51 còn được cho là nơi đã tiến hành các nghiên cứu về người ngoài hành tinh. Ngày càng có nhiều tiết lộ của người trong cuộc chứng thực về những vụ nghiên cứu người ngoài hành tinh ở Vùng 51. Mời độc giả đón đọc kỳ sau: Những người ngoài hành tinh trong Vùng 51.
Minh Tiến
2014-12-03 18:40:06
Nguồn: http://www.nguoiduatin.vn/vung-51-va-vu-khi-bi-mat-bi-nham-la-dia-bay-a165086.html