- Ngày 27 tháng 07 âm lịch 1442 (Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi.
- Ngày 04 tháng 08 âm lịch vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định (nay thuộc xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40, được vua Lê Thái Tông yêu quý vì sắc đẹp, văn chương hay, luôn được vào hầu bên cạnh vua.
- Khi về đến Lệ Chi Viên, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, lúc này ông mới 20 tuổi. Các quan bí mật đưa về, ngày 06 tháng 08 mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết vua. Nguyễn Trãi và gia đình bị án tru di tam tộc và bị giết ngày 16 tháng 08 âm lịch năm này.
- Đến tháng 07 âm lịch năm 1464, Lê Thánh Tông đã rửa oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá và bổ dụng người con còn sống sót của ông là Nguyễn Anh Vũ.
02. Truyền Thuyết
- Có truyền thuyết một thời cho rằng lúc Nguyễn Trãi còn dạy học (theo truyền thuyết thì cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh cho học trò phát cỏ ở ngò để làm chỗ dạy học cho học trò chứ không phải là Nguyễn Trãi) có dự định cho học trò phát hoang khu vườn, đến đêm nằm mơ thấy một người đàn bà với bầy con dại tới xin ông cho thư thả ít hôm mới dọn nhà vì con mọn.
- Sáng ra khi học trò của ông phát cỏ vườn nhà thì đánh chết một bầy rắn, lúc đó ông mới hiểu ra ý nghĩa giấc mơ, ông than thở, cho chôn bầy rắn và cho học trò biết là loài rắn thường hay thù dai, thế nào cũng trả thù ông.
- Đêm đó, lúc ông đọc sách thì có con rắn bò trên xà nhà nhỏ một giọt máu thấm vào chữ “đại” (“đời”) qua ba lớp giấy ứng với việc gia tộc ông bị hại đến ba đời.
- Ngày sau con rắn hóa ra bà Nguyễn Thị Lộ dụ dỗ ông, hại ba đời nhà ông và biến thành rắn bò đi khi bà Nguyễn Thị Lộ bị dìm xuống sông.
- Nhiều người tin rằng truyền thuyết này nhằm đổ tội cho bà Nguyễn Thị Lộ, giải thích nguyên nhân tiền định về cái chết của vua Lê Thái Tông và Nguyễn Trãi, xoa dịu lòng tiếc thương Nguyễn Trãi và chán ghét nhà Lê nhỏ mọn đối với công thần. Họ cho rằng đây là thuật tuyên truyền của tầng lớp thống trị hồi đó lợi dụng lòng mê tín của nhân dân. Ngày nay truyền thuyết này bị bác bỏ và không được xác chứng…
03. Nguyên Nhân
Đến nay, một số nhà sử học Việt Nam, như Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ (trong tác phẩm “Nhìn lại lịch sử”), cho rằng chủ mưu vụ án chính là Nguyễn Thị Anh, vợ thứ vua Lê Thái Tông.
04. Ngôi Thái Tử
- Ngoài các suy đoán căn cứ vào sử sách, gần đây các nhà nghiên cứu nói trên đã tham khảo gia phả dòng họ Đinh là con cháu của công thần Đinh Liệt nhà Hậu Lê và phát hiện nhiều bài thơ của chính Đinh Liệt để lại (được công bố trong “Nhìn lại lịch sử” của họ).
- Bài thơ được viết bằng chữ Hán nhưng viết theo kiểu ẩn ý, dùng phép nói lái để người đọc suy đoán rằng: Thái tử Lê Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông) không phải là con vua Lê Thái Tông. Vua Lê Thái Tông lúc mất mới 20 tuổi nhưng trước khi mất vua đã có 4 con trai. Con lớn nhất là Nghi Dân, con thứ hai là Khắc Xương, con thứ ba là Bang Cơ (Lê Nhân Tông sau này), con thứ tư là Tư Thành (Lê Thánh Tông sau này).
- Vì các hoàng tử đều còn quá nhỏ (chỉ chênh nhau một vài tuổi) nên việc tranh chấp ngôi thái tử xảy ra giữa các bà vợ vua Thái Tông. Nguyễn Thị Anh là mẹ của Bang Cơ. Nghi Dân là con lớn nhất vốn đã được lập làm thái tử dù còn rất nhỏ. Nhưng sau đó Nguyễn Thị Anh được vua sủng ái nên năm 1441 vua truất ngôi của Nghi Dân mà lập Bang Cơ. Bà mẹ của Khắc Xương vốn không được vua sủng ái nên không thể tranh chấp ngôi thái tử.
- Tuy nhiên, nhiều người trong triều dị nghị rằng, Nguyễn Thị Anh đã có thai trước khi vào cung và Bang Cơ không phải là con vua Thái Tông. Biết bà Ngọc Dao đã sinh con trai mà ngày càng nhiều người đồn đại về dòng máu của Bang Cơ, nhân lúc con mình còn đang ở ngôi đương kim thái tử, Nguyễn Thị Anh chủ động ra tay trước. Sau khi vua mất, Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và phải thụ án.
BẠN ĐANG XEM BÀI HƯỚNG DẪN, CHIA SẺ KINH NGHIỆM, KIẾN THỨC, BÁCH KHOA TOÀN THƯ, THẾ GIỚI SỐ VÀ GIẢI TRÍ CỦA MẠNG KAI4YOU EDU TẠI WEBSITE HTTP://WWW.KAI4YOU.COM . CẢM ƠN SỰ ỦNG HỘ CỦA CÁC BẠN. CHÚC CÁC BẠN THÀNH CÔNG!
- Chính bởi thân thế của Lê Nhân Tông có phần “không chính” nên sau này, năm 1459, con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi Dân nói rõ: “… Diên Ninh [Nhân Tông] tự biết mình không phải là con của tiên đế [Thái Tông]…”
- Dù sao đi nữa, chuyện Bang Cơ có phải con vua Thái Tông thực hay không nhưng cũng như Tần Thủy Hoàng, ngôi chính của ông đã định, bởi thế những người phản lại như Lê Nghi Dân nhà Lê hay tướng Phàn Ô Kỳ nước Tần vẫn bị coi là “nghịch”, là trái lẽ.
- Trong cuốn “Ngọc phả họ Đinh” do công bộ thượng thư Đinh Công Nhiếp, con trai đầu của thái sư Đinh Liệt, có một số bài thơ do Đinh Liệt viết có liên quan đến vụ án Lệ Chi Viên.
- Bài thơ Nôm nhận xét về Lê Thái Tông:
- Trong bài này Đinh Liệt buộc phải dùng phép nói lái: Tống Thai tức là Thái Tông Lê Nguyên Long. Vua là một “anh quân” vì ông biết ngăn ngừa cường thần, dẹp phiên trấn, sùng nho, mở thi cử, song lại quá ham tửu sắc.
- Về “hoạ tự trong nhà”, Đinh Liệt có bài thơ:
Nhung tân lục cá nguyệt khai hoa.
Bất thức hà nhân chủng bảo đa.
Chủ kháo Tống khai vi linh dược.
Cựu binh tân tửu thịnh y khoa.
- “Nhung tân” đọc lái là Nhân Tông, tức là Bang Cơ, con Nguyễn Thị Anh, “thịnh y” là “thị Anh”. Bài này có thể tạm dịch:
Nhân Tông sáu tháng đã ra hoa.
Dòng máu ai đây quý báu à?
Núp bóng Thái Tông làm linh dược.
Thị Anh dùng ngón đổi dòng cha.
- Trước khi vào cung, Thị Anh đã gian díu với Lê Nguyên Sơn:
Tống Thai mạc kiến nguy ký hiện.
Nịch ái Thịnh y nhật nhật tăng.
Mỹ sắc điềm ngôn gia phỉ báng.
Cơ đồ sự nghiệp hải hà băng
- Dịch là:
Thái Tông chẳng thấy nguy đã hiện.
Say đắm Thị Anh cứ mãi tăng.
Sắc đẹp lời ngon kèm phỉ báng.
Cơ đồ sự nghiệp có ngày băng.
- Việc Thị Anh giết hai hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng được Đinh Liệt viết trong bài thơ mà nhiều người cho rằng vì chính hai người này đã mật báo cho ông và Nguyễn Trãi biết:
Nhung Tân hà hữu Tống thai tinh.
Lục nguyệt khai hoa quái dị hình.
Niên nguyệt nhật thời Thăng Đính ký.
Hoàng bào ô nhiễm vạn niên thanh.
- Chữ Thăng Đính đọc ngược là Đinh Thắng. Dịch là:
Nhân Tông không phải máu Nguyên Long.
Sáu tháng hoài thai cảnh lạ lùng.
Năm, tháng, ngày, giờ Đinh Thắng chép.
Hoàng bào dơ bẩn tiếng ngàn năm.
Với cách gọi các vua bằng miếu hiệu như Thái Tông, Nhân Tông, chắc chắn các bài thơ này Đinh Liệt viết vào thời Lê Thánh Tông. Dù Nhân Tông và thái hậu Nguyễn thị đã chết nhưng việc này vẫn không thể nói công khai, vì trên danh nghĩa, ngôi vua của Nhân Tông vẫn là hợp pháp. Có như vậy, việc cướp ngôi của Lê Nghi Dân mới là “phản nghịch” và việc lên ngôi của Thánh Tông mới là hợp lẽ. Đây chính là nguyên nhân khiến Đinh Liệt phải dùng phép nói ẩn ý để truyền lại cho đời sau.
Vụ án Lệ Chi Viên từng được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học và nghệ thuật trong đó có các tác phẩm được báo chí đánh giá cao như vở cải lương Rạng ngọc Côn Sơn của Sân Khấu đoàn cải lương Trần Hữu Trang.
01. Kai4you Edu tôn trọng quyền sỡ hữu trí tuệ của các bên liên quan và yêu cầu bạn cũng tôn trọng các quyền sỡ hữu trí tuệ. Và sẽ nỗ lực đảm bảo chỉ đăng tải những thông tin chính xác tại địa chỉ website của mình.02. Tuy nhiên, Kai4you Edu không đảm bảo và cam kết về tính chính xác và độ tin cậy của bất kỳ thông tin, nội dung và tài liệu nào trên trang này. Kai4you Edu sẽ không chịu trách pháp lý về bất kỳ thiệt hại nào xảy ra do sử dụng các thông tin được đăng tải.03. Những thông tin mà Kai4you Edu đăng tải có thể là tự biên soạn hoặc sưu tầm từ những nguồn khác nhau trên internet, bản quyền thuộc về tác giả. Kai4you Edu sẽ gỡ bỏ hoàn toàn những thông tin được cho là vi phảm bản quyền chỉ khi có yêu cầu từ phía tác giả. Chi tiết có thể xem thêm tại mục “Điều Khoản Sử Dụng” của Kai4you Edu.
2014-10-22 00:26:08
Nguồn: http://edu.akviet.com/2013/06/su-that-vu-le-chi-vien.html