CNM365. TÌNH YÊU CUỘC SỐNG. 365 chuyện kể mỗi ngày. Đầu xuân đọc lại Văn Công Hùng. Hoàng Kim. Tôi nhấm nháp đọc lại “Tây Nguyên của tôi”, “Hồi ức đò dọc” của Văn Công Hùng. Hai tản văn này là sự tiếp nối trường ca “Lời vĩnh cửu” và tập thơ “Vòm trời khác” của anh mà tôi yêu thích.
Tìm hiểu văn chương, văn hóa Tây Nguyên, tôi đoan chắc với bạn sau Nguyên Ngọc thì Văn Công Hùng … là một địa chỉ xanh đáng tin cậy. Đọc thơ Văn Công Hùng thật ngộ. Thơ anh như có nhạc, có ảnh, có cồng chiêng và cả sự tung tẩy: “Anh đã đi qua miền đông miền thu miền hạ, gặp miền em diệu ảo đến không ngờ. Em dâng cho cuộc đời thêm một miền khao khát, đến vỡ oà trái đất giữa miền em. Những xác tín cuộc đời rơi như cát kẽ tay, em chân thật đến tận cùng chân thật, yêu tận cùng mê đắm, tận cùng dâng hiến, tận cùng hy sinh, tận cùng như chưa thể tận cùng. Có gì mong manh hơn nước mắt, nhưng cũng không có gì mạnh bằng nước mắt. Dẫu trong veo nhưng mặn chát nghìn trùng. Ai cũng hiểu nước mắt đâu chỉ là nước mắt, nó là bể dâu sấp ngửa phận người. Nó được chắt ra từ tận cùng khổ đau tận cùng sung sướng, từ tận cùng nhịp thổn thức trái tim. Nó cứng như đá hoa cương, mềm như hoa cải ven sông, mềm hơn cả những gì dịu dàng nhất. Nó là tinh hoa của hạnh phúc, là những điều không thể nói người ơi. Là những điều em đào sâu chôn chặt. Nhưng dẫu chặt đến cỡ nào nước mắt vẫn trào ra. Có những lúc ta ngồi nhâm nhi nước mắt, nghe rưng rưng năm tháng chảy qua đời, nghe phập phù bao điều ân nghĩa, nghe mặn mòi những kỷ niệm vời xa. Mà bến sông xưa con đò giờ xiêu dạt, chớp lưng chừng trời bông gạo tả tơi, một vết cắt ngọt ngào đau rát, dấu chân mòn vệt cỏ chẳng hề xanh. Có đôi mắt nào long lanh sau kẽ lá, em nhìn ai nắng đọng bên rào, em nhìn ai chiều xoay như mắt bão, em nhìn ai chấp chới men rừng. Con đò xưa con đò xưa xa vắng, sông lững lờ thao thiết sông trôi. Ngày hôm nay bỗng dâng đầy nước mắt… Chẳng thể nào anh hiểu hết em đâu, nếu chiều nay em không tiễn ngày đi bằng nước mắt. Nước mắt của một đời im lặng, bỗng vỡ oà trong thăm thẳm chiều trôi. Và anh hiểu phía sau điều tưởng như vặt vãnh ấy là bao la dằng dặc kiếp người. Té ra trong cuộc đời còn biết bao điều bí ẩn mà nếu vô tình ta chẳng thể nhận ra ” (trích Lời vĩnh cữu).
Đọc văn anh, lại thấy dường như có thơ, có sự dạo chơi tâm tình trò chuyện. Bạn hãy xem trích đoạn mở đầu của Hồi ức đò dọc: “Hôm rồi về quê, bạn tổ chức một cuộc đi thuyền ngược phá Tam Giang. Chao ơi là thênh thang, là rười rượi, là sảng khoái,là mê ly…Từ bến đò Lê Lợi, thuyền đi xuôi về phố cổ Bao Vinh, chui qua một loạt cây cầu, qua ngã ba Sình, đến cửa Thuận rồi hòa vào phá. Mênh mông và rợn ngợp. Không thấy bờ, tất nhiên. Sóng rất ngoan và nắng rất hiền, gió thì như lên đồng lúc the thẩy lúc ngang tàng nhưng luôn luôn làm cho sự hài hòa không khí đầm phá như là dĩ nhiên nó thế. Rất ấn tượng với hệ thống nò, lưới, với những cái am giữa phá, những lá cờ đỏ phấp phới vừa báo hiệu vừa tâm linh khiến ta có cảm giác vừa rợn ngợp vừa thân thiện…“.
Riêng tôi thì “Tây Nguyên của tôi” đúng như Văn Công Hùng tự nhận xét đó là một trong những tản văn ưng ý nhất của anh. Nó hay và sâu sắc đến ám ảnh… Đối với tôi, Miền Trung, Nam Bộ, Tây Nguyên – đất phương Nam – nay sao thân thiết lạ, xa mà gần, thăm thẳm một vùng thương nhớ.
Cám ơn Văn Công Hùng. Cuối đông nhớ bạn. và, đến nay đầu xuân, tôi lại nhớ bạn. Đọc “Tây Nguyên của tôi” Văn Công Hùng, tôi ngắm nghía bức ảnh “Một thế hệ Tây Nguyên mới” và đọc đi đọc lại nhiều lần đoản văn kết: “Tây Nguyên đang rời xa đi cái gốc nguyên thủy của nó, đang bị giằng xé dữ dội giữa phát triển và bảo tồn, giữa những vòng quay chóng mặt của ngộ nhận và cố chấp, của cả tự ti và áp đặt, của vênh vang và ngu dốt, của thực dụng và hiếu thắng…
Chứ trong tôi, một Tây Nguyên hài hòa, nhân văn, trữ tình và đầy khát vọng nhưng cũng rất khiêm nhường luôn luôn thường trực, một Tây Nguyên biết cứ khi nào con người mỏi chân thì lại hiện lên một cái cây bóng mát, một Tây Nguyên có hẳn một nghi lễ khóc trâu trước khi hiến tế, và một Tây Nguyên cương quyết không lừa thần linh, nên dẫu nhà nước hứa rồi nhưng lại không cho thần linh ăn trâu thì họ mang về làng để làm. Bởi họ không ăn trâu, mà là dâng hiến cho thần linh. Sự dâng hiến tự nguyện và thành kính.
Nhân nghĩa thủy chung và cũng rất giữ lời, trung thực một cách cực đoan như vậy đấy, Tây Nguyên của tôi…”
Tôi vừa viết một chùm bốn bài ưng ý về Nguyễn Du 250 năm nhìn lại; Nguyễn Du danh sĩ tinh hoa; Nguyễn Du hiền tài lỗi lạc; Nguyễn Du là bậc anh hùng. Một sự thật lịch sử là: “Nguyễn Du 15 năm lưu lạc” đã hé lộ; “Nguyễn Du Hồ Xuân Hương” mối tình thủy chung đầy đặn, hình tượng Từ Hải và Kiều; ‘Kỳ Lân mộ’ Bắc Hành tạp lục, Nguyễn Du mắng Minh Thành Tổ là bài thơ đanh thép có sức mạnh của một đạo quân, làm bẻ gãy vụn ý chí xâm lược của Càn Long định rửa nhục cho Tôn Sĩ Nghị nên dùng danh tướng Phúc Khang An tùy nghi hành sự. Sự thật lịch sử là Nguyễn Du chống lại Nguyễn Huệ nên đã bị giam lõng ở Nghệ An, có phải lý do đã hé lộ trong bài thơ này? Nguyễn Du đã gác tình nhà không mưu tự lập để đặt chữ hiếu với dân với nước lên trên hết. Nguyễn Du đã toàn tâm toàn ý giúp Nguyễn Ánh trong chuyến đi Chánh sứ lần ấy, với Bắc Hành tạp lục là một sử luận, áng văn ngoại giao xuất sắc nhất từ xưa đến nay, đủ làm cho vua Càn Long nể phục, tự tay viết bức đại tự mến tặng mà không dám dòm ngó đất phương Nam nữa. Nguyễn Du là quốc sĩ, đặt Nhân dân Tổ quốc lên đầu, là ngọc cho đời. Văn chương Nguyễn Du kiệt tác là vậy.
Viết về Tây Nguyên, sau “ Nước Mội, rừng xanh và sự sống” của Nguyên Ngọc là “Tây Nguyên của tôi” Văn Công Hùng. Dẫu chưa là kiệt tác, nhưng là bài viết hay, đáng đọc.
Hoàng Kim
Mời bạn đọc “Tây Nguyên của tôi” Văn Công Hùng tại đây:
TÂY NGUYÊN CỦA TÔI
Văn Công Hùng
Bài viết này tôi viết trong nỗi yêu thương và cả đắng đót xót xa đến đớn đau về cái vùng đất mình đã gắn với nó hơn nửa đời người. Và là bài viết về Tây Nguyên ưng ý nhất từ xưa đến nay, nhiều bạn bè văn chương đã đọc và đều… khen, huhu…
Có lần một cô giáo đến tìm tôi tại phòng làm việc. Vân vi một hồi rồi thì cô nói rằng cô giáo của cô, một tiến sĩ ngữ văn, là người quen của tôi, nói cô đến tìm tôi. Thì ra là cô này chuẩn bị làm luận văn thạc sĩ, mà cô thì rất yêu văn học dân gian Tây Nguyên, thích sử thi Tây Nguyên (tôi vẫn cho rằng cái từ sử thi này nó chưa ổn lắm), và cái cô tiến sĩ bạn tôi kia là người sẽ hướng dẫn luận văn cho cô giáo này. Cô trò ngồi bàn nhau cả buổi và cuối cùng thì cô giáo tiến sĩ nói cô giáo chuẩn bị thạc sĩ về tìm tôi, nhờ tôi tư vấn cho đề tài mà làm.
Lại cũng mất cả tiếng đồng hồ thao thao các kiểu thì trong tôi lóe lên một tứ, rằng là, em thử làm về yếu tố biển trong sử thi Tây Nguyên xem. Cô này ớ ra nhưng rồi sau khi nghe tôi thuyết phục đã về viết đề cương để nộp…
Đại loại rằng, trong quá trình sống, tiếp xúc, sưu tầm, tìm hiểu…, tôi thấy trong khá nhiều các trường ca cổ (H’ri, H’amon…) của người Tây Nguyên có nhắc đến biển. Và điều kỳ lạ là, những gì họ nhắc, khá là giống… biển, dù các nghệ nhân khi kể cho chúng tôi ghi chép lại những trường ca kia, một trăm phần trăm chưa ai thấy biển, chưa biết biển là như thế nào? Ngày xưa các làng Tây Nguyên sống biệt lập, ẩn trong ngút ngàn rừng già. Làng này biệt lập với làng kia, mỗi làng là một vương quốc. Các làng chỉ gặp nhau trong vài trường hợp như: đánh nhau giành đất, được mời sang dự Pơ thi hoặc lễ gì đấy. Người Việt cũng lấy lũy tre làng làm biên giới, nhưng hàng tháng họ còn có cái chợ phiên để đến đấy giao lưu. Ngay người Mông, người Thái cũng vậy. Người Tây Nguyên không có chợ, không có các hoạt động liên làng nên việc họ gặp nhau rất là hãn hữu.
Huống gì thấy biển
Thế mà trong các trường ca cổ ấy, có rất nhiều biển.
Tôi giải thích với cô giáo ấy rằng, nguyên do có thể ngày xưa Tây Nguyên vốn dĩ là đại dương, rồi qua một cơn tạo sơn vĩ đại nào đấy, tự nhiên biển hóa núi, và thành Tây Nguyên như hiện nay. Vì đã có lần tôi nghe nói, người ta đào được một cái vỏ sò rất lớn ở vùng nào đó của Đăk Lăk. Thì cũng là nghe nói thế, thậm chí có người nhờ tôi xác minh, nhưng rồi quên mất. Cái vỏ sò ấy nếu có, nó cũng có niên đại cả triệu năm chứ không ít.
Nguyên do thứ hai đến từ khát vọng của người Tây nguyên cổ. Ở đời thiếu cái gì người ta thường mơ về cái ấy, trong đấy, bầu trời và đáy biển là hai nơi con người khát khao khám phá nhất. Thần thoại Hy Lạp chả đã có nhân vật là cậu bé Icarus lấy sáp ong gắn lông chim làm cánh để bay lên trời hòng xem trên ấy có gì mà rực rỡ thế. Ước mơ ấy đã suýt thành hiện thực nếu như cậu đã không vì tò mò quá mà bay lên rất gần mặt trời. Sức nóng làm sáp ong chảy ra và cậu rơi xuống biển, chấm dứt một giấc mơ hoành tráng nhưng tuyệt đẹp của con người mà mãi hàng nhiều vạn năm sau, hậu thế của Icarus đã làm được. Cũng như thế, những gì mà Jules Verne đã kể trong cuốn sách nổi tiếng của ông “Hai vạn dặm dưới đáy biển” thì té ra sau này hoàn toàn có thật, dù khi viết nó, ông chỉ ngồi một chỗ và… tưởng tượng.
Nhắc tới Jules Verne, không thể không nói tới khả năng liên tưởng tiên đoán thiên tài của những nghệ sĩ thứ thiệt. Các nghệ nhân Tây nguyên, khi sáng tạo ra các trường ca ấy, tuy là vô danh nhưng đều là những con người cụ thể. Đời này qua đời khác, họ sáng tạo kiểu chắp nối để rồi thành hàng ngàn trang sử thi cho chúng ta sưu tầm, nghiên cứu… Sự tưởng tượng thiên tài chỉ xuất hiện ở những con người kiệt xuất, những nghệ sĩ thứ thiệt có thể thấy trước tương lai. Phải vậy chăng mà trong các chức năng của văn chương, có chức năng dự báo…Vân vân, là tôi ngồi véo von như thế để cho cô giáo về mà tự nghiên cứu chứ tôi chỉ là kẻ lớt phớt thôi. Rất tiếc, sau này tôi có gặp tiến sĩ Đấu – Chủ nhiệm Khoa văn (Trường đại học Quy Nhơn), anh có nhắc lại chuyện cái đề tài ấy, khi ấy anh cũng không biết là của tôi nghĩ ra. Anh bảo là khi ấy cả hội đồng không ai hình dung được rằng Tây Nguyên lại có biển, tưởng rằng nó chỉ là đặc sản của Quy Nhơn và những vùng tương tự thế, nên đã bác cái đề cương này, nhưng giờ nghe tôi phân tích thì anh bảo… hay quá. Tôi đùa nhưng giờ thì tôi thu lại bản quyền rồi, các ông không được dùng nữa…
Tôi sống ở Tây Nguyên đến giờ mới hơn ba chục năm mà đã chứng kiến bao thay đổi, thì cái sự ngày xưa nơi đây là biển rồi giờ thành rừng cũng chả lấy gì làm lạ lắm. Rồi ngay cái gọi là rừng thì bây giờ cũng đã có nhiều thay đổi lắm rồi. Ngày xưa rừng ngút mắt, rừng miên man, rừng chằng chịt, giờ, tất cả như khoe ra dưới mặt trời cái màu đất Tây Nguyên tưởng như đặc trưng té ra cũng không đặc trưng nữa… Tây Nguyên thay đổi vừa do quy luật tự nhiên, vừa do con người. Càng văn minh thì con người càng can thiệp vào thiên nhiên thô bạo hơn.
Tôi nhớ mãi cái ấn tượng về cây Kơ Nia mà ông họa sĩ Xu Man bày cho tôi hồi mới lên Tây Nguyên nhận công tác. Hồi ấy là đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước.
Xu Man người Bahnar, là họa sĩ có đai có đẳng của Tây Nguyên, 2 khóa liền là ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông có nhiều tranh được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mua và được giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
Đấy là một con người Tây Nguyên nhất trong những người Tây Nguyên mà tôi gặp. Đã từng đi nước ngoài, nhiều năm ở Hà Nội, học từ cao đẳng lên đại học mỹ thuật, nhưng về hưu một cái là ông về làng ngay, dù tỉnh Gia Lai hồi ấy tuyên bố cấp nhà trên phố Pleiku cho ông. Về làng ông cũng ở nhà sàn. Cái nhà gạch nền xi măng Ty Văn hóa làm cho ông ở làng, ông để làm… kho và cho anh em họa sĩ học trò hoặc đồng nghiệp về thăm ông ở và sáng tác, vì làng ông rất đẹp. Ông tự tay làm một cái nhà sàn phía sau, đống lửa giữa nhà, ghè rượu quanh vách, tấm dồ một góc, những quả bầu đựng nước, những chiếc gùi, nồi cơm và nồi canh lá sắn cà đắng trên bếp, những ống thịt trên giàn… tất cả làm nên một thế giới Bahnar của Xu Man. Cái duy nhất khác giữa ông với một già làng Bahnar hồi ấy là ông có một cái đài (radio) mở oang oang cả ngày. Khi còn làm ở ty Văn hóa Gia Lai thì ông vẫn chủ yếu ở dưới làng, tháng đôi lần ông lên cơ quan họp, bằng xe đạp, tất nhiên. Từ Pleiku về làng ông hơn 60 cây số. Trong một buổi sáng nắng gay gắt, cùng đạp xe với ông, khát quá, tôi rủ ông ghé vào một quán cà phê ven đường nghỉ. Ông bảo cố tí nữa, đến gốc Kơ nia kia nghỉ sẽ rất thú vị.
Và quả là thú vị. Dốc chiếc túi cói treo ở ghi đông xe ra, ông có một chai rượu nhỏ, một bầu nước suối và một nắm hạt tôi không biết hạt gì. Nước suối thời trong veo và mát lịm, khi lên Pleiku ông đều ra con suối làng mình lấy mấy bầu rồi mang lên thành phố dùng. Ông nhẩn nha đập ra mấy hạt rồi chìa cho tôi một hạt, bảo hãy nhắm với rượu. Thì ra đấy là hạt Kơ nia. Ông kể, cây Kơ nia từ đời nào đến giờ là bạn của người Tây Nguyên, nó che chở cho người Tây nguyên, thậm chí là ân huệ của đấng tối cao ban cho người Tây Nguyên. Thì đấy, cứ đi trên đường, bao giờ mỏi chân, lại một cây Kơ nia hiện ra, mọi người túm lại đấy nghỉ, hết mệt lại đi, người Tây Nguyên toàn đi bộ nhé, bao giờ mệt, khát, lại một cây Kơ nia xuất hiện, che chở cho con người, dìu con người qua cơn đói, cơn khát, cơn nắng… vậy nó không phải của đấng tối cao cử xuống chở che cho con người thì là gì?
Sau này tìm hiểu tôi mới biết, té ra là hạt Kơ nia ăn rất ngon, nó giúp cho người Tây Nguyên, và cả bộ đội một thời, thay cơm mùa giáp hạt. Mỗi khi rời nhà lên rẫy hoặc ngược lại, họ đều lấy một ít bỏ vào gùi, đến khi mệt thì ngồi nghỉ, lấy hạt ra đập ăn, lấy nước trong bầu uống. Và trong lúc dùng đá đập thì thế nào cũng có vài hạt văng ra đâu đó, trong những hạt văng ra ấy, thế nào cũng có một hạt mọc thành cây. Cứ thế, đời này qua đời khác, những cây Kơ nia cô lẻ trở thành thước đo cơn khát cơn mệt và cũng trở thành nơi che chở cơn khát cơn mệt của con người.
Cũng phơi ra dưới nắng là những làng Tây Nguyên bây giờ. Những mái nhà lợp tôn đỏ bầm như màu trời ngày sau bão. Những thói quen, những nếp ứng xử cũng đã khác xưa. Không hiểu tốt hay xấu hơn, nhưng rõ ràng, nó lạnh lẽo hơn dẫu là ngồi trong nhà mái tôn giữa trưa hực nắng. Nó cũng cô đơn hơn dẫu bây giờ rất nhiều các mối quan hệ chằng chéo níu giữ. Ngày xưa sau gia đình là đến cộng làng với già làng. Và chỉ thế. Giờ còn bao nhiêu cơ quan đoàn thể, bao nhiêu sự chi phối, bao nhiêu cánh cửa mở ra mà sao con người vẫn thấy cô đơn, trần trụi. Cũng là đi bộ, người Tây Nguyên chuyên đi bộ theo hàng một, dẫu là hàng trăm người đi. Nhưng là đi trong rừng, bất trắc đấy- đi hàng một để tránh bất trắc- nhưng vẫn thấy yên ổn ấm áp, bởi rừng, dẫu bất trắc khôn lường, nhưng luôn thân thiện và sẻ chia cùng con người. Giờ, đường ô tô tận làng, người dân vẫn đi bộ, vẫn hàng một, mà sao cứ thấy lầm lụi, cứ thấy vênh lên trong cái màu đỏ đến nhức mắt của đất đỏ, của màu trời và cả trong màu cà phê chín…
Hôm nọ ở một cái festival rất lớn mang tầm quốc tế về cồng chiêng, người ta định bảo bà con diễn một cuộc ăn trâu phục vụ festival, chuẩn bị xong hết thì lại bảo bà con không làm nữa vì có vị lãnh đạo bảo nó dã man quá. Nhiều người không biết rằng, cái cuộc ăn trâu ấy sau này dân làng vẫn phải tự làm ở làng mình, vì đơn giản, nếu không làm tức là lừa dối thần linh.
Chứ không như hiện nay, người ta phong cho nó thành “lễ hội đâm trâu” rồi xách ông trâu ra cột giữa cái sân đông đặc người, rồi nhảy múa hú hét xung quanh cho con trâu ba hồn chín vía bay tiệt lên trời rồi bất thình lình đâm một nhát, máu me nhoè nhoẹt.
Vấn đề là, ai, và từ lúc nào, đã làm cho ý nghĩa những sinh hoạt văn hóa, và ý nghĩa tâm linh của những sinh hoạt ấy bị biến tướng đi một cách dữ dội thế…?
Nguyễn Cường là một nhạc sĩ rất nổi tiếng viết về Tây Nguyên. Nhưng Tây Nguyên nhất quyết không phải như những gì Nguyễn Cường đã viết. Anh đã tạo ra một lớp công chúng của mình bằng cách phả rock vào những ca khúc anh viết về Tây Nguyên, tạo ra một Tây Nguyên máu lửa, hừng hực, man dại và… nông cạn. Trong khi thật sự, Tây Nguyên lại rất trữ tình, sâu sắc và… mềm yếu mong manh nữa. Thì hãy nghe Y Phôn Ksor chẳng hạn, chàng nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Ê Đê này có mấy bài hát để đời như “Đi tìm lời ru mặt trời”, “Đôi chân trần”… mà xem, ta hoàn toàn không thấy hú hét, không lắc mông lắc ngực, không nhảy tưng tưng, mà nó thủ thỉ tâm tình, nó xa xót đắng đót, nó thâm trầm đến thắc thỏm u uẩn, khiến người nghe như mỏng đi, như dẹt ra trong cái thổn thức nao lòng của giai điệu.
Làng Xốp Nghét của cụ Mết trong tác phẩm Rừng xà nu nổi tiếng của nhà văn Nguyên Ngọc hôm nay: Nhà trệt, lợp ngói, nền đất lầm bụi… |
Tôi đã có nhiều đêm thức để nghe các già làng, các nghệ nhân cao tuổi kể khan (hri, hamon), chưa bao giờ thấy hú hét, chưa bao giờ thấy giậm giật. Chỉ là những thủ thỉ tâm tình, những câu chuyện ăn vào đêm, xuyên vào đêm, rỉ rả như đêm để rồi mỗi sáng mai lại bừng ngộ rằng, cái thế giới mà tôi vừa lẫn vào nó tối qua, té ra nó lại đang hiển hiện ngay trước mắt tôi kia, nhưng nó lại cũng vô cùng lạ lẫm, bởi tôi vừa được chứng kiến sự thoát thân kỳ lạ của nghệ nhân. Cái ông cởi trần mặc khố thu lu đầu gối quá tai nhăn nheo ngồi trước tôi bây giờ và cái ông mới đêm qua nằm kể khan vừa là 1 mà lại là 2, vừa trần trụi lại vừa lộng lẫy, vừa hiện thực cũ mèm đây lại cũng rất tinh khôi ngời sáng khi dám đi bắt nữ thần mặt trời, dám “đằng vân quá hải” chỉ để thỏa mãn khát vọng tự do của mình…
Tôi cũng từng có một cuộc ngồi rất thú vị với mấy “quý ông” Tây Nguyên nổi tiếng một thời ở nhà ca sĩ Y Zăc. Những là Y Phôn Ksor, Y Moan, Kran Dich, KPlin, Y Zắc… ngồi suốt một đêm, ngồi nghe họ hát mộc dân ca Tây Nguyên với Ghi ta, uống rượu cần trong một ngôi nhà ngoại ô thành phố Buôn Ma Thuột. Rồi nghe họ nói chuyện về Tây Nguyên, thì mới biết té ra, lâu nay những cái mình biết về Tây Nguyên chỉ là lớp váng, chỉ là thứ phù du bụi bặm nổi lên trên, sâu lắng phía dưới, lặn dưới đáy là cả một trầm tích đậm đặc vừa ma mị vừa minh triết với những hiển nhiên nhưng không thể cắt nghĩa được. Chao ơi, cái khó, cái làm ta ma mị chính là ở những điều hiển nhiên không thể cắt nghĩa được ấy. Ai mà cắt nghĩa được rằng, tại sao tự mình không làm ra chiêng, nhưng người Tây Nguyên đã biến chiêng thành một thứ tài sản đương nhiên của mình không cần bảo chứng vậy. Ban đầu người Tây Nguyên làm chiêng bằng… tre nứa, sau đấy họ mon men xuống đồng bằng nước Việt, hoặc thông qua thương lái đưa lên, rồi sang cả Lào, đổi trâu, voi… lấy chiêng. Vì thế tên chiêng bây giờ vẫn có chiêng Yoăn (Kinh), chiêng Lao (Lào). Nhưng chiêng chỉ thành chiêng khi nó được chính những nghệ nhân tài hoa Tây Nguyên ra tay chỉnh, bây giờ hay gọi là lên dây chiêng. Cuộc hồi sinh vĩ đại của chiêng chính là từ sự chỉnh chiêng của người Tây Nguyên này. Phải qua công đoạn này thì chiêng mới thành… chiêng. Rồi còn tự tạo ra không gian chiêng nữa…
Cái sự mà UNESCO công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại không hẳn là vì chiêng Tây Nguyên vĩ đại, được tôn vinh, mà ý nghĩa chính là món này nó đang chuẩn bị tiệt chủng, cần bảo vệ khẩn cấp. Bao nhiêu năm qua, từ cái thời đề cương văn hóa của ông Trường Chinh, chúng ta đã đề cao dân tộc tính, chỉ rõ phải bảo tồn ra sao, bản sắc ra sao… thế mà rồi, cụ thể ra, cái bản sắc thật sự của Tây Nguyên là gì đã mấy ai hiểu hết. Cồng chiêng đấy, suốt ngày kêu gọi bảo tồn rồi nâng niu gìn giữ, cuối cùng thì phải bảo vệ khẩn cấp. Lý do người Tây Nguyên quý chiêng như thế là vì chiêng không chỉ là vật chất thông thường đổi bằng trâu bằng voi, mà nó chính là đời sống tâm linh, trong chiêng có Yang, thế mà bây giờ người ta dửng dưng đến thế?
Chúng tôi đã rất nhiều lần được sống cùng chiêng tại các buôn làng. Cũng nhiều lần được xem các cuộc lễ hội có đạo diễn mang chiêng trên sân khấu. Rất khó khi chúng ta cứ muốn giữ những gì là nguyên bản, và lại càng khó hơn khi chúng ta mang nó ra cộng đồng lớn hơn khu vực làng, vượt qua yếu tố nghi lễ tâm linh trở thành biểu diễn thi thố. Văn hóa và văn minh thường là xung đột với nhau để xã hội phát triển mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Đời này sang đời khác, cuộc giành giật níu kéo giữa phát triển và bảo tồn, giữa cái mới và cái cũ, giữa hào nhoáng và thô sơ nguyên bản, giữa bản chất và hiện tượng… luôn làm loài người phải bận tâm để rồi chúng ta có văn hóa, có văn hóa vùng miền và văn hóa nhân loại, có văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng, có văn hóa bản sắc và văn hóa đại trà… tựu trung lại, nó là những sản phẩm vô giá của con người gửi lại cho mai hậu…
Một thế hệ Tây Nguyên mới |
Và nói thật, thấy thảm hại làm sao khi chúng ta bứng chiêng ra khỏi buôn làng, ra khỏi không gian của nó, biến nó thành những hình nhân nhí nhố trên sân khấu, trên đường phố lòe loẹt xanh đỏ tím vàng. Nhưng chúng ta đã làm và vẫn đang làm việc ấy?…
Mà ngày xưa ấy, có phải cứ tự nhiên thích đánh chiêng là lôi chiêng ra mà đánh được đâu. Giờ chúng ta làm theo kế hoạch, ngành văn hóa lên kế hoạch từ đầu năm, tháng nào tháng nào có liên hoan hoặc lễ hội cồng chiêng, sức cho các làng các xã chuẩn bị, rồi đúng ngày đúng tháng, các nghệ nhân lên xe ô tô, mang chiêng đi… thi. Lại phải nói rõ thêm một điều nữa, rằng là hoàn toàn không có “lễ hội cồng chiêng” như chúng ta hay gọi, mà cồng chiêng chỉ là một thành tố của lễ hội. Nó như cỗ phải có gà luộc nhưng gà luộc thì không phải cỗ vậy.
Tây Nguyên đang rời xa đi cái gốc nguyên thủy của nó, đang bị giằng xé dữ dội giữa phát triển và bảo tồn, giữa những vòng quay chóng mặt của ngộ nhận và cố chấp, của cả tự ti và áp đặt, của vênh vang và ngu dốt, của thực dụng và hiếu thắng…
Chứ trong tôi, một Tây Nguyên hài hòa, nhân văn, trữ tình và đầy khát vọng nhưng cũng rất khiêm nhường luôn luôn thường trực, một Tây Nguyên biết cứ khi nào con người mỏi chân thì lại hiện lên một cái cây bóng mát, một Tây Nguyên có hẳn một nghi lễ khóc trâu trước khi hiến tế, và một Tây Nguyên cương quyết không lừa thần linh, nên dẫu nhà nước hứa rồi nhưng lại không cho thần linh ăn trâu thì họ mang về làng để làm. Bởi họ không ăn trâu, mà là dâng hiến cho thần linh. Sự dâng hiến tự nguyện và thành kính.
Nhân nghĩa thủy chung và cũng rất giữ lời, trung thực một cách cực đoan như vậy đấy, Tây Nguyên của tôi…
VĂN CÔNG HÙNG
Chúc mừng Năm mới 2016 vui khỏe hạnh phúc
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày
- Chào ngày mới 15 tháng 1
- Chào ngày mới 14 tháng 1
- Cây Lương thực 1.2016
- Chào ngày mới 13 tháng 1
- Chào ngày mới 12 tháng 1
- Chào ngày mới 11 tháng 1
- Chào ngày mới 10 tháng 1
- Chào ngày mới 9 tháng 1
- Chào ngày mới 8 tháng 1
- Chào ngày mới 7 tháng 1
- Chào ngày mới 6 tháng 1
- Chào ngày mới 5 tháng 1
- Chào ngày mới 4 tháng 1
- Chào ngày mới 3 tháng 1
- Chào ngày mới 2 tháng 1
- Chào ngày mới 1 tháng 1
- Giáo sư Mai Văn Quyền người Thầy nghề nông
- Nhớ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
- Ung Khâm Liêm xưa và nay
- Con đường lúa gạo Việt Nam
- Lương Định Của cuộc đời và sự nghiệp
- Lương Định Của quê hương và dòng họ
- Lương Định Của những năm tháng tuổi trẻ
- Lương Định Của luồng gió từ Hà Nội
- Lương Định Của nhà bác học nông dân
- Lương Định Của chính khách giữa lòng dân
- Thầy bạn và học trò Lương Định Của
- Ông bà Của cổ tích giũa đời thường
- Hoàng Kim về với rằm xuân
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Trời nhân loại mênh mông
- Đi tìm lịch sử bị quên lãng
- Ông già Noel thật
- Đêm Thánh vô cùng
- Mùa xuân quê hương
- Những bài ca bình minh
- Bên lề chính sự: Sự kiện chính cuối năm
- Bên lề chính sự: Nhìn xa hơn 2016
- Bên lề chính sử: Chiến tranh Đông Dương
- Bên lề chính sử: Thư Thủ tướng
- 90 năm Viện KHKTNN miền Nam
- Nhà văn tồn tại ở tác phẩm
- Đến Thái Sơn nhớ Đào Duy Từ
- Đào Duy Từ còn mãi với non sông
- Sông Thương
- Sắn Việt Nam bảo tồn phát triển bền vững
- Đất Mẹ vùng di sản
- Miên Thẩm là Đỗ Phủ văn chương Việt
- Cây Lương thực 12 2015
- Hồ đẹp Tanganyika và Victoria
- Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung
- Lên non thiêng Yên Tử
- Đông Dương tìm tòi và cảm nhận
- Thăm ngôi nhà cũ của Darwin
- Bí mật cung Đan Dương tại Huế
- Ngày Người khuyết tật Quốc tế nhớ bạn
- Helen Keller người mù điếc huyền thoại
- Tháp vàng hoa trắng nắng Mekong
- Chuyện vỉa hè
- Mark Twain là Lincoln văn học Mỹ
- Chuyện vỉa hè
- Bàn cờ thế sự
- Chu Văn Tiếp ở Đồng Xuân
- Sao Kim kỳ thú
- 24 tiết khí lịch nhà nông
- Kênh ông Kiệt giữa lòng dân
- Công việc này trao lại cho em
- Lời của Thầy theo mãi bước em đi
- Ơn Thầy
- Đọc lại và suy ngẫm
- Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời
- 60 năm Đại học Nông Lâm TP. HCM
- Trường tôi và tình yêu ở lại
- Gowda địa chỉ xanh ICRISAT Ấn Độ
- Ký ức CIMMYT ở Mexico
- Myanmar đọc lại và suy ngẫm
- Im lặng mà bão giông
- Chuyện vỉa hè
- Angkor nụ cười suy ngẫm
- Cây Lương thực 11.2015
- Lên Yên Tử sưu tầm thơ đức Nhân Tông
- Đọc lại và suy ngẫm
- Biển Đông vạn dặm
- Đọc lại và suy ngẫm
- Giống khoai lang ở Việt Nam
- Đọc lại và suy ngẫm
- Đọc lại và suy ngẫm
- Cây Lương thực 10.2015
- Đọc lại và suy ngẫm
- Minh triết sống thung dung phúc hậu
- Đến chốn thung dung
- Nghiên cứu Kinh Dược Sư
- Bàn cờ thế sự
- Tình Mẹ và đức Nhẫn
- Năng lượng tích tụ và giải phóng
- Tỉnh lặng với Osho
- Borlaug và Hemingway
- Bảy ngày đêm tỉnh lặng
- Viếng mộ cha mẹ
- Suối nhạc tình yêu cuộc sống
- Ngủ ngon và tỉnh thức
- Lời Thầy dặn
- Minh Không huyền thoại Bái Đính
- Dạo chơi non nước Việt
- Bàn cờ thế sự
- Biển Đông vạn dặm
- Nghị lực
- Quang Dũng những bài thơ hay
- Em ơi em can đảm bước chân lên
- Thắp đèn lên đi em!
- Bài ca Trường Quảng Trạch
- Bàn cờ thế sự 7
- Vua Phổ Friedrich II Đại Đế
- Bước ngoặt lịch sử chiến tranh Đông Dương
- Quả táo Apple Steven Jobs
- xem tiếp…
Video yêu thích
KimYouTube
Trở về trang chính
Hoàng Kim Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và học Cây Lương thực Dạy và Học Tình yêu cuộc sống Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter
2016-01-16 16:52:05
Nguồn: https://khatkhaoxanh.wordpress.com/2016/01/16/dau-xuan-doc-lai-van-cong-hung/