Thể phế âm hư
Triệu chứng: Thường sốt về chiều, ho ít đờm có lẫn máu, hai gò má đỏ, miệng họng khô đầu lưỡi đỏ, người mệt mỏi. Mạch tế sác.
Bài 1: Sa sâm 12g, huyền sâm 12g, thiên môn 8g, mạch môn 12g, sinh địa 12g, a giao 8g, bách bộ 6g. Nước vừa đủ sắc còn 1/3 uống ấm sau bữa ăn 60 phút.
Bài 2: Nguyệt hoa thang gia giảm: Sinh địa, hoài sơn, thiên môn, mạch môn, phục linh, a giao, mỗi vị đều 12g; bách bộ, xuyên bối mẫu, bách hợp mỗi vị 8g; ngọc trúc 8g. Sắc uống như bài trên.
Gia giảm: Nếu ho ra máu nhiều gia tam thất 4g, bạch cập 8g; đờm nhiều gia qua lâu nhân 8g; đau ngực gia uất kim 8g.
Thể phế thận âm hư
Triệu chứng: Vì âm hư hoả vượng nên hay sốt về chiều, nhức trong xương, ra mồ hôi trộm, lòng bàn tay bàn chân nóng, hay trằn trọc, dễ cáu gắt, đau ngực, ngủ ít, sụt cân, di tinh, kinh nguyệt không đều, họng lưỡi khô, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.
Phép chữa: Tư âm, giáng hoả nhuận phế chỉ khái.
Bài 1: Sa sâm, sinh địa mạch môn đều 12g; huyền sâm, địa cốt bì, bách bộ (chế) đều 18g, xạ can 6g, hạ khô thảo 16g. Sắc uống như trên.
Bài 2: Sa sâm, mạch môn, bách hợp, bách bộ, huyền sâm, hoàng cầm đều 12g; sinh địa 16g, hạ khô thảo 16g, bạch cập 8g. Sắc uống như trên
Gia giảm: Nếu ra mồ hôi trộm thêm long cốt 16g, mẫu lệ 16g; ngủ ít thêm táo nhân 12g, bá tử nhân 12g.
Thể tỳ thận phế đều hư
Triệu chứng: Ho thở gấp, ho ra đờm loãng, có khi dính máu, nhức trong xương, sốt buổi chiều, tự ra mồ hôi, ra mồ hôi trộm, ăn ít, phân nhão, sắc mặt trắng bệch, hơi phù, chất lưỡi khô. Mạch tế sác, vô lực.
Phép chữa: Ích khí dưỡng âm.
Bài 1: Đảng sâm 16g, hoài sơn 16g, ý dĩ 12g, bạch truật 16g, mạch môn 12g, thiên môn 12g, quy bản 12g, a giao 8g. Sắc uống như bài trên.
Bài 2: Đảng sâm 16g, bạch truật 12g, phục linh 8g, cam thảo 6g cỏ nhọ nồi 12g ngũ vị tử 6g, bách hợp 8g, tử uyển 12g, bối mẫu 6g… Sắc uống như trên.
Bài 3: Đảng sâm 16g, bạch truật 12g, hoài sơn 12g, ngũ vị tử 6g, mạch môn 12g, ngọc trúc 12g, bách bộ (chế) 12g. Sắc uống như bài trên: nếu ho nhiều thêm hạnh nhân 12g, bối mẫu 8g; nếu ho ra máu thêm ngó sen 12g; nếu có sốt thêm: sơn chi tử 12g, đơn bì 12g; nếu nhức trong xương, sốt hâm hấp thêm địa cốt bì 12g; ra mồ hôi trộm thêm long cốt 12g mẫu lệ 10g.
Trong chữa bệnh lao phổi ngoài uống thuốc còn kết hợp ăn uống để tăng hiệu quả điều trị. Xin giới thiệu một số món cháo dưỡng sinh và canh thuốc theo kinh nghiệm dân gian có kết quả chữa bệnh tốt.
Cháo câu kỷ tử: Câu kỷ tươi 100g. gạo lức 60g. Cả hai thứ đãi sạch cho nước nấu cháo ăn với cháo đậu mặn. Tác dụng: trị lao phổi, bổ gan, tiết tà độc sốt hâm hấp về đêm, ra mồ hôi trộm, ngực khó chịu, đêm ngủ không yên, mệt mỏi. Ngày ăn 2 lần.
Cháo địa hoàng, táo nhân: Địa hoàng sống 30g, táo nhân chua 30g, gạo lức 100g. Táo nhân chua cho nước nghiền nát, lấy 100ml nước. Địa hoàng sống, đổ nước sắc cô đặc lấy 100ml. Gạo lức vo sạch cho nước nấu cháo chín thì cho nước địa hoàng và nước táo chua vào quấy đều là được. Ngày 1 bát chia 2 lần ăn. Tác dụng: Chữa lao phổi, thường sốt vào 2 giờ chiều, dưỡng tâm bồi bổ sức khoẻ, an thần, thanh nhiệt hết khát.
Cháo phổi lợn: Phổi lợn 250g, gạo lức 100g. Phổi lợn rửa sạch cắt miếng. Nước vừa đủ nấu chín vớt phổi ra cắt bằng quân cờ, cho vào gạo đã vo sạch nấu cháo chín cho gia vị, gừng, hành bột ngọt là được. Ngày 1 bát chia ăn 2 lần, ăn thường xuyên, kết quả tốt. Tác dụng: bổ phổi khỏi ho, chữa lao phổi, viêm khí quản mạn.
Cháo bách hợp: Bách hợp khô 50g, đường trắng 100g, gạo lức 100g. Bách hợp, gạo đãi sạch cho vào nồi, nước 1 lít, nấu cháo chín cho đường vào là được. Ngày 1 bát chia ăn 2 lần. Tác dụng: dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận phổi, điều trung, khỏi ho, chữa lao phổi, chống ung thư thực quản, ung thư dạ dày.
Cháo hoa hồng: 5 bông hoa hồng, gạo 100g, long nhãn 50g, mật ong 100g. Gạo ngâm nước vớt ra để ráo. Long nhãn thái nhỏ hạt lựu. Cánh hoa rửa sạch cắt nhỏ. Cho 1 lít nước vào nồi, đun sôi, cho gạo, long nhãn vào nấu cháo, khi sắp chín cho mật ong, cánh hoa vào quấy đều là được. Ngày 1 bát chia ăn 2 lần. Tác dụng: Hoạt huyết tiêu thũng giải độc trị lao phổi, phế hư ra máu.
Cháo trám, cà rốt: Trám 50g, cà rốt 100g, gạo lức 100g, đường trắng 100g. Trám, cà rốt rửa sạch thái hạt lựu. Gạo đãi sạch cho vào nồi, đổ nước 1 lít, lửa to đun sôi rồi cho trám, cà rốt, đường trắng vào nấu chín, ăn. Tác dụng: thanh nhiệt giải độc, bồi bổ sức khoẻ, thanh phế lợi hầu hết ho, trị lao phổi.
Canh ba ba: Thịt ba ba 250g, bách bộ 9g, địa cốt bì 9g, sinh địa 24g, tri mẫu 9g. Dội nước sôi cho ba ba chết, chặt bỏ đầu, lọc bỏ yếm, mai, ruột, cắt thành từng miếng quân cờ. Các vị kia rửa sạch. Tất cả cho vào nồi đất, nước vừa đủ, đun to lửa tới sôi thì chuyển đun nhỏ lửa khoảng 2 giờ, cho muối vào là được. Ngày 1 thang ăn kèm với bữa ăn. Tác dụng: bổ âm thanh nhiệt chữa lao phổi, âm hư, gan bàn tay bàn chân nóng.
Cháo hoa huệ: Hoa huệ 300g ngâm nước ấm nửa ngày, sau đó cho 10g gạo lức, một ít đường nấu thành cháo ăn thường xuyên. Tác dụng bổ âm mát phổi trị lao phổi.
Trứng ga, trà xanh, mật ong: Trứng gà 1-2 quả, trà xanh 1g, mật ong 25g. Cho cả ba thứ vào nồi, đổ 300ml nước, đun sôi, luộc trứng chín tới là được. Dùng 1 lần sau khi ăn sáng. Tác dụng: bổ âm trị lao phổi.
Lương y Minh Chánh
(Theo suckhoe& doisong)