ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: ZeroEnergyVN
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
Huyền thoại giáo dục Phần Lan
Monday, October 21, 2013 1:45
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


B4INREMOTE-aHR0cDovLzEuYnAuYmxvZ3Nwb3QuY29tLy1vclUtaG1FcTFSby9VbVRuSThqT2ZzSS9BQUFBQUFBQUo2QS9mNVU4Q25zbWExSS9zMzIwL2ZpbmxhbmQtaGVsc2lua2kuanBn
Giáo dục Phần Lan bắt đầu
được dư luận quốc tế quan tâm từ sau khi Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
OECD tổ chức các kỳ thi PISA (Chương trình đánh giá học sinh quốc tế (Programme
for International Student Assessment). Thành công xuất sắc của học sinh Phần
Lan trong các kỳ thi này đã làm cả thế giới ngạc nhiên.


PISA là bài kiểm tra kiến thức của các trẻ em 15 tuổi, thực hiện 3 năm một kỳ
tại hơn 40 địa điểm cho gần nửa triệu HS trên toàn cầu. PISA mới tiến hành được
4 kỳ (2000-2003-2006-2009) thì Phần Lan giành được vị trí thứ nhất trong 3 kỳ
đầu. Tại PISA 2009 họ đứng thứ hai về khoa học, thứ ba về đọc hiểu và thứ sáu
về toán học.


Sau một thời gian say sưa tranh cãi về cuốn Chiến ca của Mẹ Hổ, cuối cùng
phương pháp giáo dục của Phần Lan lại đang trở thành một chủ đề nóng ở Mỹ sau
khi nước này chiếu bộ phim tài liệu Chờ đợi Siêu nhân [1], vạch ra các vấn đề
tồn tại của giáo dục công lập Mỹ, có so sánh với Phần Lan. Báo The Economist
của Anh Quốc còn kiến nghị các nhà lãnh đạo châu Âu tạm ngừng công việc để đến
Phần Lan dự các giờ học cấp phổ thông, tìm hiểu xem vì sao học sinh nước này
giỏi thế. Người Trung Quốc càng hết lời ca ngợi giáo dục Phần Lan. Một bà mẹ
đem hai con sang Phần Lan sống mười mấy năm, tự mình trải nghiệm thực tế giáo
dục từ vườn trẻ đến đại học của xứ này, sau đó nhận xét: So với Phần Lan thì
giáo dục Trung Quốc chỉ là một bãi rác lớn. Cần nhấn mạnh: người Phần Lan không
hề coi trọng mọi kỳ sát hạch học sinh, kể cả PISA, họ không bao giờ mở các lớp
chuyên để đào tạo “gà nòi” đi thi PISA như ở một số nước khác. GS Pasi
Sahlberg, nhà giáo dục nổi tiếng, Tổng Giám đốc Trung tâm Luân chuyển và Hợp
tác quốc tế Phần Lan (National Centre for International Mobility and
Cooperation, CIMO) nói: “Chúng tôi chuẩn bị cho trẻ em học cách để học chứ
không phải học cách để làm một bài kiểm tra. Chúng tôi không quan tâm nhiều tới
PISA. Nó không phải là thứ chúng tôi nhắm tới”.Chính người Phần Lan cũng không
hiểu tại sao HS họ lại chiếm vị trí hàng đầu trong các kỳ kiểm tra PISA, bởi lẽ
họ đâu có quan tâm gì tới việc xếp hạng. Nhưng khi các đoàn cán bộ giáo dục từ
khắp thế giới kéo đến Phần Lan tìm hiểu kinh nghiệm dạy và học của xứ này thì
họ mới để ý tới chuyện ấy. Ngành du lịch Phần Lan cũng khởi sắc nhờ thành tích
của ngành giáo dục.


Triết lý giáo dục đúng đắn

Giáo dục Phần Lan vận hành theo một triết lý (tư tưởng) giáo dục độc đáo, thể
hiện ở quan điểm đối với học sinh và giáo viên: hai chủ thể quan trọng nhất này
của nhà trường phải được quan tâm và tôn trọng hết mức.

Sự ưu ái HS thể hiện ở chỗ ngành giáo dục phải làm cho nhà trường trở thành
thiên đường của trẻ em! Muốn thế người Phần Lan đã hủy bỏ mọi chuyện khiến lũ
trẻ đau đầu nhức óc như cạnh tranh (hoặc dưới mỹ từ “thi đua”), xếp hạng giỏi
kém trong học tập và các kỳ sát hạch thi cử. Ở cấp tiểu học hoàn toàn không có
kiểm tra kiến thức. Nhiệm vụ của giáo viên là làm cho HS hào hứng học tập, say
mê hiểu biết, quan tâm tập thể và xã hội. Tóm lại, HS không phải chịu bất cứ
một sức ép nào trong học tập.

    GS Sahlberg nói: “Chúng tôi không tin vào thi cử, không tin
rằng có một kỳ thi thống nhất là việc tốt. 12 năm học đầu tiên trong đời HS chỉ
có một kỳ thi duy nhất vào lúc các em đã ở độ tuổi 18-19, đó là kỳ thi trước
khi vào đại học. Nhờ thế thầy và trò có nhiều thời gian để dạy và học những gì
họ ưa thích. Các thầy cô của chúng tôi tuyệt đối không giảng dạy vì thi cử, HS
cũng tuyệt đối không học vì thi cử. Trường học của chúng tôi là nơi học tập vui
thích 100%. Ưu điểm của chế độ học tập ở Phần Lan là ươm trồng tinh thần hợp
tác chứ không phải là tinh thần cạnh tranh. Chúng tôi không lo HS sau này sẽ
cảm thấy sợ hãi khi bước vào xã hội đầy cạnh tranh”.

Luật pháp Phần Lan quy định không được dùng cách xếp hạng hoặc cho điểm để đánh
giá các HS trước lớp 6. Khi các thầy cô muốn bình xét năng lực và biểu hiện của
HS nào đó thì họ phải dùng văn bản ghi lại sự đánh giá, có thuyết minh cặn kẽ,
chứ không được đơn giản dùng điểm số hoặc thứ bậc xếp hạng để bình xét. Bởi lẽ
mỗi HS đều có sở trường của riêng mình, giáo viên chỉ có thể thông qua nhiều
hình thức hoạt động để tìm hiểu HS và khai thác phát huy tiềm năng của các em.

Có người cho rằng trong môi trường không có so sánh, không có cạnh tranh, không
có sát hạch thi cử thì HS sẽ không có động lực để học tập. Thực ra HS Phần Lan
vẫn có thi đại học, kỳ thi duy nhất sau 12 năm học, cạnh tranh cũng rất quyết
liệt, nhưng khi ấy HS đã trưởng thành. Người ta cố gắng không để HS cạnh tranh với
nhau quá sớm. Các nhà trường ở châu Á cạnh tranh với nhau rất gay gắt, đó là do
giáo viên, phụ huynh, HS và mọi người luôn so bì lẫn nhau. Người Phần Lan không
làm như vậy, họ trau dồi cho HS tinh thần Hợp tác quan trọng hơn cạnh tranh,
nhấn mạnh ở cấp mẫu giáo và trung tiểu học lại càng cần tạo ra bầu không khí
không có cạnh tranh. Đây là một ưu điểm của chế độ giáo dục Phần Lan.

Một nhà tâm lý học từng nói: “Hôm nay HS biết hợp tác với nhau thì ngày mai họ
sẽ có năng lực cạnh tranh”. Muốn giỏi cạnh tranh thì trước hết phải biết mình,
rồi tìm hiểu người khác. Biết mình để tự tin. Biết người, tức biết đối phương,
là để hiểu được ưu điểm của họ; điều ấy thực hiện được trong quá trình hợp tác
với họ, qua đó sẽ có được năng lực cạnh tranh. Trau dồi năng lực sáng tạo trong
môi trường chan hòa tình người thì tốt hơn trong môi trường cạnh tranh khốc
liệt, vì khi ấy người ta không muốn chia sẻ kinh nghiệm cho người khác, và cũng
không muốn mạo hiểm, như vậy sao có thể có được sức sáng tạo. Vì thế người Phần
Lan chủ trương HS học hỏi lẫn nhau, chia sẻ với nhau thành công của mình.

Người Phần Lan trau dồi cho học sinh tinh thần Hợp tác quan trọng hơn cạnh
tranh, nhấn mạnh ở cấp mẫu giáo và trung tiểu học lại càng cần tạo ra bầu không
khí không có cạnh tranh. Chủ thể quan trọng thứ hai của giáo dục là giáo viên
cũng phải được sống trong môi trường ít sức ép nhất. Thầy cô giáo phải được xã
hội tôn trọng hết mức. Muốn vậy, cũng như với HS, đối với giáo viên, nhà trường
áp dụng nguyên tắc không so sánh, không xếp thứ hạng hoặc cho điểm các giáo
viên, không tổ chức thi tay nghề giảng dạy, cũng không làm bản nhận xét đánh
giá giáo viên.

Ngành giáo dục không làm cái việc đánh giá, xếp hạng chất lượng các trường. Nhờ
thế tất cả giáo viên đều rất tự tin, ai cũng tự hào về trường mình. Họ giải
thích: Nếu thầy cô còn coi thường trường mình thì HS sao có thể tin vào nhà
trường?

    GS Sahlberg nói: “Rất nhiều quốc gia tiến hành cải cách giáo
dục xuất phát từ mặt hành chính, thậm chí tham khảo giới kinh doanh, đưa phương
thức vận hành công ty vào áp dụng trong trường học, lập chế độ thưởng phạt.
Cách làm như thế là không đúng. Chúng ta đều biết, trừ khi nhà trường có giáo
viên giỏi, trừ khi chúng ta luôn đào tạo chuyên môn cho giáo viên và giúp đỡ
họ, trừ khi xã hội biết tôn trọng giáo viên, nếu không thì cải cách giáo dục sẽ
không thể thành công”.

Điều đó xuất phát từ nhận thức: Nếu xã hội đã không tín nhiệm chính thầy cô
giáo của mình thì còn nói gì tới việc HS tin yêu và nghe lời thầy cô? Một khi
thực thi cơ chế đánh giá xếp hạng giáo viên thì tất nhiên giáo viên bị xếp hạng
thấp sẽ còn đâu uy tín để dạy các em? Một nhà trường bị xếp hạng kém thì còn ai
muốn cho con mình vào học? Như vậy giáo dục còn có ý nghĩa gì?

Nếu bạn hỏi bất cứ quan chức nào của Bộ Giáo dục Phần Lan về chất lượng giáo
viên xứ này thì họ sẽ nói: “Tất cả thầy cô giáo của chúng tôi đều giỏi như
nhau!”. Họ cũng nói: “Tất cả các trường của chúng tôi đều giỏi như nhau!” “Tất
cả các HS của chúng tôi đều giỏi cả”. Câu trả lời ấy nói lên sự tự tin của một
quốc gia đã thực sự đạt được sự bình đẳng trong giáo dục, vì vậy họ có quyền
nói như thế. [2]

Giáo viên cũng phải được sống trong môi trường ít sức ép nhất. Muốn vậy, cũng
như với HS, đối với giáo viên, nhà trường áp dụng nguyên tắc không so sánh,
không xếp thứ hạng hoặc cho điểm các giáo viên, không tổ chức thi tay nghề
giảng dạy, cũng không làm bản nhận xét đánh giá giáo viên.

Nhằm thực hiện được các nội dung triết lý kể trên, Bộ Giáo dục Phần Lan nêu yêu
cầu cực cao đối với chất lượng giáo viên, chỉ tuyển những người có tinh thần
hết lòng phụng sự nhân dân và đạo đức nghề nghiệp cao thượng, và hơn nữa còn
tạo điều kiện tốt nhất tiếp tục đào tạo họ. Về trình độ chuyên môn, toàn bộ
thầy cô giáo tiểu học và trung học đều phải có bằng thạc sĩ trở lên, và phải có
chứng chỉ đạt yêu cầu sát hạch tư cách giáo viên. Người giỏi mới được làm giáo
viên. Các trường sư phạm tuyển sinh rất khắt khe, tỷ lệ thi đỗ chỉ đạt 10%. GS
Sahlberg cho biết: trong năm 2010 có khoảng 6.600 ứng viên tranh nhau 660 chỗ
giảng dạy ở cấp tiểu học. Nghề giáo thực sự là nghề cao quý, được xã hội trọng
vọng.

Ngành giáo dục thiết lập một hệ thống dựa trên tinh thần trách nhiệm, cho phép
giáo viên được quyền tự do nhất định trong việc giảng dạy. HS cũng được quyền
tự chọn phương thức học tập của mình. Giáo viên lên lớp bình quân 3 tiết mỗi
ngày (so với 7 ở Mỹ), do đó có nhiều thời gian để sáng tạo bài giảng truyền
được cảm hứng cho HS.

Một quốc gia không có cơ chế đánh giá hoặc xếp thứ hạng giáo viên và HS, không
yêu cầu thầy trò tranh vị trí thứ nhất, thế mà lại được cộng đồng OECD xếp hạng
có nền giáo dục phổ thông tốt nhất. Khi biết tin này, chính những người Phần
Lan rất ngạc nhiên.


Giấc mơ bình đẳng giáo dục

Trước thập niên 70 thế kỷ XX, giáo dục Phần Lan chưa có gì đáng tự hào. Ngành
giáo dục thực hiện chế độ quản lý tập trung, có rất nhiều quy chế ràng buộc
công việc của giáo viên. Thời ấy HS đến 10 tuổi đều phải qua một kỳ thi, dựa
theo kết quả thi để phân ban, một loại là lớp phổ thông, một loại là lớp học
nghề; việc phân ban đó quyết định tương lai các em một cách võ đoán, tương lai
cả cuộc đời phụ thuộc vào một kỳ thi. Kết quả thi được cho điểm từ 4 đến 10;
điểm 10 là điểm số cao nhất; điểm 4 là trượt. Thời ấy các em HS tuổi còn nhỏ mà
đã biết dùng đẳng cấp để so bì lẫn nhau, qua điểm số mà cho rằng mình kém hoặc
hơn người khác. Trong mỗi lớp lại còn chia ra các nhóm HS tùy theo năng lực,
các em luôn so kè lẫn nhau.

Về sau giới chức giáo dục Phần Lan nhận thấy cách làm như vậy là không tốt, bởi
lẽ mỗi người đều có năng lực và cách biểu hiện khác nhau. Làm như vậy chẳng
khác gì bắt voi, chim cánh cụt và khỉ thi tài leo cây; dùng tài leo cây làm
tiêu chuẩn đánh giá năng lực của chúng là rất vô lý. Vì thế ngành giáo dục nước
này đã quyết định hủy bỏ chế độ chia đẳng cấp, không dùng điểm số để phân chia
thứ bậc nữa. Các giáo viên nhanh chóng nhận thấy cách làm này là tốt. Nhờ thế
đã thay đổi không khí học tập trong trường, thầy trò hợp tác với nhau, đoàn kết
nhất trí. Từ thập niên 80, mọi hình thức sát hạch và thi cử, kể cả chế độ thi
thống nhất chung cho các trường đều bị hủy bỏ.

Một nội dung nữa của triết lý giáo dục Phần Lan là toàn thể HS phổ thông trong
cả nước phải được hưởng nền giáo dục như nhau, không thể để con nhà giàu được
học tốt hơn con nhà nghèo, con em người da trắng được học tốt hơn con em người
da màu di cư từ châu Phi châu Á đến. Tư tưởng bình đẳng giáo dục ấy được Nhà
nước Phần Lan nêu ra trong một đạo luật ban hành năm 1860. Từ năm 1915, giáo
dục được thừa nhận là một quyền công dân.

Trong đợt cải cách giáo dục tiến hành vào những năm 70 thế kỷ XX, ngành giáo
dục Phần Lan nêu ra ước mơ HS trong cả nước đều được học trong các trường công
chất lượng tốt [3]. Họ gọi ước mơ ấy là Giấc mơ Phần Lan (The Finnish dream).
Sự nghiệp giáo dục của họ phát triển liên tục, bền vững suốt 40 năm nay chính
là nhờ tất cả các nhiệm kỳ Chính phủ nước này đều nối tiếp nhau thực hiện bằng
được giấc mơ bình đẳng giáo dục ấy, dù đảng phái nào lên cầm quyền cũng vậy.

Ít thấy nước nào có được giấc mơ giáo dục đẹp như thế, nó kích động lòng người
và gợi mở bao ý tưởng tuyệt vời, nó giúp thu hẹp tới mức tối thiểu sự khác biệt
giữa các trường và khoảng cách giữa HS kém nhất với HS giỏi nhất, giảm đáng kể
ảnh hưởng của địa vị kinh tế-xã hội của phụ huynh đối với HS. Các trường đều
không có cơ chế đào thải HS khi các em chưa đủ 10 tuổi; tất cả HS đều có cơ hội
học tập bình đẳng. Điều đó xuất phát từ nhận thức: Tâm hồn trong trắng ngây thơ
của trẻ em cần được sự dẫn dắt đúng đắn của người lớn trong môi trường trong
sạch thuần khiết chứ không phải môi trường cạnh tranh tàn nhẫn của thế giới
người lớn.


Phải thay đổi tư duy nếu muốn học được gì từ giáo dục Phần Lan

Rõ ràng tư duy giáo dục của người Phần Lan rất độc đáo. Nguyên tắc giảm hết mức
sức ép đối với HS, chủ trương thực hiện trường nào, thầy trò nào cũng giỏi như
nhau của họ khác xa lối dạy và học nhồi nhét kiến thức cũng như chủ trương xây
dựng các trường lớp “chuyên” thường thấy ở phương Đông. Phải chăng chừng nào
chưa thay đổi tư duy thì khó có thể học được điều gì từ huyền thoại giáo dục
Phần Lan?

Các phụ huynh Á Đông lo chuyện học tập của con với tư duy không để con thua kém
ngay từ vạch xuất phát, chỉ lo đưa con vào học trường nổi tiếng, bắt con học
kiểu nhồi vịt khi chúng còn bé tẹo. Người ta quá say sưa với những cuộc thi
kiến thức, buộc tâm hồn trong trắng thơ ngây của lũ trẻ phải nhồi nhét bao
nhiêu kiến thức thế gian người lớn từ cổ Hy Lạp tới hậu hiện đại mà chẳng biết
có trau dồi được chút đầu óc sáng tạo nào cho chúng hay không [4]. Cha mẹ đua
nhau dạy con từ khi còn là bào thai, đưa con vào lớp năng khiếu từ tuổi mẫu
giáo, thi HS giỏi, thi Olympic, học thêm, học hè. Tư duy ấy làm họ hao tổn công
của, chỉ làm mồi cho bao kẻ cơ hội vớ bẫm bằng cách mở các trường lớp nhắm vào
nhu cầu của họ. Cả xã hội lao vào thi cử, học để mà thi, cho nên học vẹt chứ
không phải học để có năng lực sáng tạo. HS chấp nhận mọi kiến thức được dạy mà
không dám nghi ngờ, phản biện.

Cần phải thấy quan niệm không để con em thua kém ngay từ vạch xuất phát là có
hại cho sự trưởng thành của trẻ em. Mục đích của giáo dục phổ thông là trau dồi
luân lý đạo đức, gợi mở tri thức. Một nền giáo dục quá chú trọng điểm số và
cạnh tranh sẽ chỉ làm tổn thương trí tuệ và tâm hồn thuần khiết của trẻ em.
Thật đáng thương những đứa trẻ thơ ngây hết cặm cụi học ở trường lại vùi đầu
làm bài tập ở nhà, không còn thời gian rảnh rỗi, lúc nào cũng sống trong sức ép
căng thẳng do người lớn tạo ra. Học tập đáng lẽ là niềm vui lại trở thành gánh
nặng, thành nỗi lo âu, thâm chí sợ hãi của chúng. Điều đó không thể không ảnh
hưởng tới sự phát triển tâm sinh lý bình thường của trẻ.

Hàn Quốc có một Thần đồng thất bại. Đó là Kim Ung-Yong sinh năm 1962, được sách
Kỷ lục Guinness công nhận có IQ cao nhất thế giới: trên 210. Mới 4 tuổi Kim đã
được học và đọc được ba ngoại ngữ Nhật, Đức, Anh. Sau đó chú bé được mời vào
học khoa Vật lý Đại học Hanyang. 7 tuổi, Kim được Cơ quan Không gian NASA mời
sang Mỹ. Tại đây anh học xong đại học và lấy bằng tiến sỹ vật lý khi chưa đầy
15 tuổi. Sau 10 năm ở Mỹ, Kim quyết định về nhà để… phụng dưỡng cha mẹ, chọn
con đường làm người kỹ sư xây dựng bình thường, tránh xa mọi vinh quang của
danh hiệu thần đồng.

Khưu Thành Đồng – người Hoa đầu tiên được tặng huy chương Fields Toán học
(1982) – từng khuyên Trung Quốc bỏ các kỳ thi Olympic, vì các nghiên cứu sinh
Trung Quốc do ông hướng dẫn tuy đều là HS giỏi thi Olympic nhưng rất kém năng
lực sáng tạo. Ngược lại, Einstein học tiểu học, trung học, đại học đều rất bình
thường, thậm chí bị chê là chậm hiểu. Hồi học trung học ông từng bị đuổi học
một lần, thi đại học lần thứ hai mới đỗ. Nhưng điều đó đâu có ảnh hưởng tới sức
sáng tạo vĩ đại của ông.

Quá nhấn mạnh giáo dục ngay từ khi trẻ còn nhỏ, nóng vội nhồi nhét quá nhiều
kiến thức cho trẻ thực ra là cách làm mâu thuẫn với chính lời của cổ nhân Trung
Quốc: Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người [5], coi giáo dục là việc lâu
dài, cần hết sức nhẫn nại chờ đợi. Đời người là cuộc chạy marathon, chỗ nào,
lúc nào cũng là vạch xuất phát, phải học suốt đời thì mới giỏi, người dẫn đầu
lúc mới xuất phát chưa chắc đã là người về nhất sau chót. Người Phần Lan không
vội vàng bắt lũ trẻ học quá căng thẳng mà dần dần từng bước gợi mở ở chúng lòng
ham học, ham khám phá, ham sáng tạo chứ không ham thành tích, ham điểm số cao,
thứ hạng cao.

Vài số liệu về Phần Lan (theo CIA Factbook và các nguồn khác): Diện tích
338.145 km2. Số dân 5,26 triệu. Số người đi học 1,9 triệu. Số trường học các
loại 5103. GDP năm 2011: 195,6 tỷ USD (PPP). GDP đầu người 38.700 USD. Chi phí
giáo dục (2007) chiếm 5,9% GDP hoặc hơn 15% ngân sách. Có hơn 3500 trường tiểu
học và trung học.

[So sánh: Singapore 5,35 triệu dân và giàu hơn (GDP đầu người 59.900 USD) nhưng
số trường tiểu-trung học ít hơn Phần Lan gần 10 lần; Hà Nội 6,5 triệu dân có
1444 trường tiểu-trung học].

Hồ Anh Hải 

Theo Tiasang
_________________
Ghi chú:

[1] “Waiting for Superman”, được tặng giải thưởng phim tài liệu hay
nhất năm 2010 tại Sundance Film Festival.

[2] Báo Trung Quốc kể chuyện khi đến thăm một trường phổ thông ở Mỹ, đoàn cán
bộ giáo dục Trung QuốcQ có tặng nhà trường hai con gấu trúc nhồi bông với đề
nghị dùng để thưởng cho hai HS giỏi nhất. Ông hiệu trưởng cảm ơn và nói “Ở
trường chúng tôi em nào cũng giỏi như nhau cả”.

[3] Finnish Lesson #3: What can we learn from educational change in Finland?
http://www.pasisahlberg.com /blog/?p=32.

[4] Tôi đã tận mắt thấy chương trình lớp 10 ở Singapore dạy HS tác phẩm
Macbeth, một vở bi kịch viết bằng thứ English cổ của Shakespeare cực kỳ khó
hiểu ngay cả với người Anh; hơn nữa thày dạy là người Singapore thì HS chỉ có
thể học vẹt chứ sao mà tiếp thu nổi.

[5] Thập niên dục thụ, bách niên dục nhân (It takes ten years to grow trees,
but a hundred years to rear people). Xin chớ nhầm với câu “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.