ĐĂNG TIN
logo
Online:
Visits:
Stories:
Profile image
Tác giả: BINVIET News
Trang tin cá nhân | Bài đã đăng
Lượt xem

Hiện tại:
1h trước:
24h trước:
Tổng số:
Những điềm báo của chữ Hán giản thể đã trở thành sự thực, chuẩn xác một cách đáng sợ!
Wednesday, June 24, 2020 8:27
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.


Có người cho rằng, những chữ Hán giản thể giống như là một điềm báo chẳng lành. Vì sao lại nói như vậy?

Văn hóa Á Đông không hề đơn giản như bề mặt mà mọi người nhìn thấy. Từng nét lễ nghi, từng bộ trang phục, từng nét chữ đều ẩn chứa những nội hàm vô cùng sâu sắc, và liên hệ mật thiết với từng hơi thở trong cuộc sống của chúng ta.

Có một nét văn hóa mà không thể không nhắc đến, chính là nội hàm thâm sâu của loại chữ viết tượng hình – Chữ Hán. Tuy nhiên, sau khi chữ Hán bị giản lược, thì những nội hàm ấy cũng bị mất đi, thay vào đó là sự lệch lạc, thậm chí biến dị.

Có một cư dân mạng đã liệt kê ra hàng loạt các chữ Hán giản thể. Tác giả đối chiếu những chữ Hán giản thể này với các hiện tượng tai nghe mắt thấy trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Và điều nhìn thấy được khiến người ta không khỏi phải giật mình kinh ngạc!

1. Chữ “Thân” chính thể 親 (người thân)

Chữ “Thân” giản thể 亲, mất chữ “Kiến”  

Thân bất kiến: Người thân không gặp được nhau. Một năm chẳng biết cha mẹ, con cái, người thân được đoàn tụ bao nhiêu lần? Nơi nào cũng thấy lưu lại những cuộc tình chớp nhoáng. Các quý ông, quý bà khinh thường đạo lý, lang chạ khắp nơi. Điều này khiến những người cùng huyết thống cũng chẳng được vui vầy bên nhau.

2. Chữ “Sản” chính thể 產 (sinh sản)

Chữ “Sản” giản thể 产, mất chữ “Sinh” 生

Sản bất Sinh: Đậu thai mà không sinh. Ngày nay các phòng khám tư, phẫu thuật phá thai nơi nào cũng thấy. Ruộng màu thì bị bỏ hoang, mọi người đổ dồn về các khu công nghiệp và thành phố lớn, không cần ngũ cốc chỉ lo kiếm tiền.

3. Chữ “Hương” chính thể 鄉 (Quê hương)

Chữ “Hương” giản thể 乡, mất chữ “Lang” 郎 – những người trẻ

Hương vô Lang: Quê nhà không có người trẻ. Ai nấy đều đổ về thành phố lập nghiệp mưu sinh. Trong thôn làng khó có thể bắt gặp những khuôn mặt trẻ trung. Khắp cả ngôi làng chỉ thấy những người già yếu, trẻ con và người tàn tật. Đây cũng chính là một cảnh tượng thường thấy nhất tại Trung Quốc ngày nay.

4. Chữ “Ái” chính thể 愛 (Yêu)

Chữ “Ái” giản thể 爱, mất chữ “Tâm” 心 – trái tim

Ái vô tâm: Yêu không xuất phát từ trái tim. Ngày nay thử hỏi có mấy người còn giữ tấm chân tình son sắt, hay là chỉ quen chạy theo thời thế xô bồ. Đại gia cặp với chân dài. Kẻ ham tiền, người háo sắc, hễ có lợi là trao thân. Tình một đêm, tình sét đánh, tình chớp nhoáng khiến nhà nghỉ mọc lên nhan nhản khắp nơi. Quả là tình yêu không còn sự kết nối thiêng liêng và trách nhiệm suốt cuộc đời như văn hóa Thần truyền xưa kia.


Ảnh: Phạm vi công cộng.

5. Chữ “Miến” chính thể 麵 (Mỳ)

Chữ “Miến” giản thể 面, mất “bộ Mạch”麥 Lúa mỳ

Miến không Mạch: Bột mỳ không làm từ lúa mạch, thì làm từ thứ gì, bạn thử đoán xem? Bột mỳ không có mùi lúa mạch, kỳ thực đã trộn lẫn phoóc môn. Đây cũng là tình trạng làm giả thực phẩm, gạo giả… phổ biến trong xã hội ngày nay

6. Chữ “Tiến” chính thể 進 (Tiến tới)

Chữ “Tiến” giản thể 进, mất chữ “Giai” 佳 – Tốt

Tiến bất giai: Bước tiếp sẽ không may mắn, mà thành con ếch ngồi trong đáy giếng (Chữ Tỉnh 井: cái giếng). Sự nghiệp cả đời truy cầu chỉ như mò trăng đáy nước, tiền tài cũng như hái hoa trong gương.

7. Chữ “Ứng” chính thể 應 (Hồi ứng)

Chữ “Ứng” giản thể 应, mất chữ “Tâm” 心

Ứng vô tâm. Lời nói gió bay, dẫu hứa hẹn cũng khó thành hiện thật, nói lời lật lọng mà không biết ngượng ngùng. Bởi vậy, trong xã hội ngày nay ‘thành tín’ ngày càng mai một, dường như đã trở thành một thứ gì đó xa xỉ không với tới. Đây cũng là tình trạng xuống dốc, đạo đức suy đồi trong xã hội ngày nay.

Người xưa rất xem trọng chữ Tín, coi lời thề hẹn nặng tựa núi Thái Sơn, lời nói ra là đã được Trời Đất làm chứng, ắt phải thực hiện. Tuy nhiên, nhiều người ngày nay vốn ảnh hưởng bởi học thuyết vô Thần, lừa gạt lật lọng, chỉ hòng đạt được lợi ích cho mình. Thật chẳng đáng buồn lắm sao!

8. Chữ “Thính” chính thể 聽 (Nghe)

Chữ “Thính” giản thể 听, mất chữ “Nhĩ” – tai

Chữ “Thính聽” (lắng nghe) ở dạng chính thể gồm bộ “Nhĩ耳” (tai), bộ “Vương 王” (vua), chữ “Thập 十” (mười), chữ “Mục目” (mắt), chữ “Nhất一” và chữ “Tâm 心”.  Nếu ghép các bộ này vào nhau chúng ta sẽ hiểu được hàm ý mà người xưa muốn gửi gắm. Khi lắng nghe một ai đó, chúng ta phải khiến người ấy cảm thấy mình quan trọng như một vị vua (chữ Vương), và lắng nghe bằng đôi tai của mình (bộ Nhĩ). Đồng thời chúng ta còn phải dồn mọi ánh nhìn và sự chú ý tới họ (chữ Thập, chữ Mục). Nhưng như vậy vẫn chưa đủ, điều quan trọng nhất là phải dành trọn trái tim để cảm nhận những điều họ nói (chữ Nhất, Tâm). Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể lắng nghe trọn vẹn những thông điệp mà họ muốn truyền tải, mới biết cách thấu hiểu và trân trọng người khác.

Chữ “Thính” 听 giản thể là Thính thiếu Nhĩ: Nghe mà thiếu mất tai. Nó chỉ gồm bộ “Khẩu口” (cái miệng) và bộ “Cân斤” (cái rìu). Đại ý là không phải dùng tai, dùng mắt, hay dùng tâm để lắng nghe như văn hóa truyền thống, mà là nghe bằng miệng, bằng những lời búa rìu sắc nhọn.

9. Chữ “Ưu” chính thể 優 (Ưu tú)

Chữ “Ưu” giản thể 优, mất chữ “Ưu” 憂 – ưu lo

Ưu cần phải Ưu lo: Muốn thành người ưu tú, xuất chúng cần phải biết lo lắng cho đại cục, cho người khác. Bậc hiền tài như vậy trong thiên hạ là khó cầu nhất. Người tài thời nay nghĩ đến vinh hoa, phú quý cho riêng mình hay lợi ích cho muôn dân? Những người nhiều tài lắm tật, e rằng lợi ít hại nhiều. Kiểu người này chỉ khiến con người càng thêm lo sầu.

10. Chữ “Thái” chính thể 採 (Hái)

Chữ Thái giản thể 采, thiếu bộ Thủ 手 – Cái Tay

Thái vô Thủ: Muốn hưởng mà không muốn động tay ra hái. Ngồi mát ăn bát vàng người người muốn, đục nước béo cò kẻ kẻ cầu. Đây cũng có thể nói là một thực trạng dễ thấy trong xã hội ngày nay.

Tin nổi bật trong ngày
Tin mới nhất

Register

Newsletter

Email this story

If you really want to ban this commenter, please write down the reason:

If you really want to disable all recommended stories, click on OK button. After that, you will be redirect to your options page.