Nói đến nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, mọi người đều khen nghệ thuật tranh thư pháp mà ông đã theo đuổi suốt ba mươi năm qua. Nghệ thuật thư pháp đối với ông, ngoài chuyện vẽ, còn là nơi ông gửi gắm nhiều tâm trạng còn vương vất bụi đời đã trải nghiệm qua thời gian. Chữ của ông đã trở thành những bức tranh sinh động, có ý tứ lạ nhưng không khó hiểu.
Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã viết cuốn “Nguyễn Bính và tôi” từ chính những kỷ niệm sâu sắc giữa hai người. Cuốn sách đã cung cấp cho bạn đọc khá nhiều câu chuyện còn bí ẩn, đặc biệt là những “bóng hồng” có liên quan tới nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính. Cuốn sách được nhiều người tìm đọc và trở thành một tư liệu quý về nhà thơ tài hoa và bạc mệnh này.
Tôi quen biết nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn khi ông còn làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Hà Nội kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội vào những năm cuối thập niên 70 (của thế kỷ XX). Lần đầu gặp mặt, tôi rất ngạc nhiên vì thấy ông ăn trầu như những bà già thời đó. Bã trầu đỏ quạch trong miệng làm đôi môi ông thắm lại.
Sau này, thi thoảng tôi lại có dịp được vào phòng thu của Đài Phát thanh Hà Nội ở phố Hàng Dầu, đọc thơ dưới sự dẫn dắt của chính nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn. Ông có duyên trò chuyện và tạo cảm hứng cho các cây bút trẻ. Giọng nói của ông ấm áp, truyền cảm, tạo không khí thân thiện với mọi người. Thời gian này, ông đã nổi tiếng với các tác phẩm, như bộ sách dịch “Ký sự lên kinh” của Lê Hữu Trác cùng tập truyện “Năm đời tổng Mỹ”…
Sau này, khi nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã chuyển sang làm Phó tổng biên tập Báo Hà Nội mới, tôi nhớ có lần ông tâm sự với tôi về một trường hợp hay thắc mắc và gây mất đoàn kết trong cơ quan cần phải xử lý kỷ luật mới có thể ổn định được nội bộ. Nghe xong, tôi gàn ông đừng nặng tay mà chỉ nhẹ nhàng xử lý theo đạo Phật là “Lấy ân báo oán thì oán oán tiêu tan”, biết đâu có thể cải tạo được người ta. Nhưng thật trớ trêu, người kia được đà lấn tới.
Sau vụ đó, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn bất ngờ xin nghỉ hưu. Người ta nói ông rũ bỏ cuộc chơi, nhưng tôi lại cho đó là một hành động đúng nghĩa với phẩm chất một nhà nho, một nhân sĩ biết nhường nhịn, chứ không muốn gây thù chuốc oán cho bất cứ ai.
Nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn bên bức tranh chữ “Hâm”.
Từ đó, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn ra sức làm việc, cần mẫn như một chú ong thợ. Sách của ông liên tiếp đến tay người đọc như các cuốn “5.000 thành ngữ Hán – Việt” (1993); “Chợ Viềng – Hội phủ” (1993); “Từ vựng chữ số và số lượng” (1994); “Hồ Xuân Hương” (1994); “Nguyễn Bính và tôi” (1996); “Tổng tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du” (1996)…
Nói đến nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, mọi người đều khen nghệ thuật tranh thư pháp mà ông đã theo đuổi suốt ba mươi năm qua. Nghệ thuật thư pháp đối với ông, ngoài chuyện vẽ, còn là nơi ông gửi gắm nhiều tâm trạng còn vương vất bụi đời đã trải nghiệm qua thời gian. Chữ của ông đã trở thành những bức tranh sinh động, có ý tứ lạ nhưng không khó hiểu.
Bên cạnh nét tài hoa, tinh tế của con chữ, ông còn thể hiện những nét hóm hỉnh với ý tứ đầy biến hóa. Đặc biệt bức tranh chữ “Ngựa” đã đem lại cảm xúc bất ngờ cho người xem. Đã có nhiều khách hàng đặt ông vẽ hình chữ này để treo chơi ngày tết. Còn khi xem bức tranh chữ “Đạo” của ông, ai cũng phải ồ lên ngạc nhiên vì chữ này hiện lên trước mắt mọi người lại là một bức tranh “Nude” với nét vẽ rất đơn giản nhưng lại vô cùng kỳ thú. Ông lấy chữ “Thủ” ở giữa, cùng nét quai xước hình dải lụa, uốn lượn rất gợi cảm. Đó là hình người múa lụa được cách điệu nhưng vẫn rõ đó là chữ “Đạo”. Cách chuyển ý rất thông minh, từ cái mà người đời coi trọng nhất đó là “Đạo” bất ngờ bị ông đồ Bùi Hạnh Cẩn đưa trở về cái bản ngã “Đời” trong tranh.
Đến nay, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn đã triển lãm tranh thư pháp của mình đến nhiều lần ở cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tết Kỷ Sửu vừa qua, dù đã bước qua tuổi 90, ông vẫn đi viết chữ tặng mọi người. Mới đây, gặp ông, tôi nhắc lại những chuyện ân oán một thời vướng bận, thì ông ngồi lặng đi, đôi mắt lim dim. Đột nhiên, ông chậm chạp đứng dậy lấy bức tranh chữ “Thời tiết” cho tôi xem, rồi giảng giải về hình chữ được cách điệu thế nào. Ông đọc to câu thơ viết ở dưới:
Mười năm Thời tiết ai lường được
Cả đến ân tình cũng nắng mưa…
Đến lúc này tôi mới hiểu thâm ý trách khéo của ông về những sự đời trớ trêu. Tôi nhấp chén trà nóng và thấy như mình đang nhập hồn vào cái thanh thản, dịu dàng và ấm áp trong từng nét chữ và hình tượng trong tranh của ông. Sau đó, ông dẫn tôi đến một bức tranh treo ở bên cửa sổ, có dòng chữ: “Danh, lợi, tình”. Bức tranh gồm hai phần chữ để tạo hình. Vòng tròn ngoài là hình nối liên tiếp ba chữ Hán Nôm: Danh Lợi, Tình. Còn ở giữa là hình tam giác được vẽ cũng chỉ ba chữ Danh, Lợi, Tình bằng chữ quốc ngữ. Ông hỏi tôi có nhận ra hình vẽ nói gì không. Tôi ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
- Hình như con người ta thường khó thoát khỏi cái vòng kim cô danh, lợi, tình ở trên đời này.
Và buột miệng:
- Chắc giờ đây ở tuổi 90, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn cũng vẫn chưa thoát khỏi cái vòng kim cô này?
Ông mỉm cười và thực lòng trả lời:
– Chưa! Tôi cũng vẫn loay hoay với ba chữ này nên mới viết ra để tự răn mình.
Tranh chữ “Ngựa” của nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn.
Vậy ra, chữ với ông là lẽ đời đã trải nghiệm, là sự dằn vặt tu thân và cũng còn là nỗi niềm tâm sự, chia sẻ với con người. Tôi sực nhớ đến những hình mà ông đã từng vẽ để diễn tả, minh họa những bài thơ của cố thi sĩ Nguyễn Bính viết tặng ông. Tôi tỏ ý muốn xem những bức tranh như thế. Ông nhanh nhẹn đi tới bàn vẽ lục tập tranh rồi rút ra bức “Hoa và Rượu”. Ông đọc to khổ thơ cho tôi nghe:
Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh
Tôi đi dan díu với kinh thành
Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới
Chuốc mãi men cay rượu ái tình
Sau đó ông mới cho tôi xem bức tranh chữ, hai chữ Hán Nôm có nghĩa “Hoa và Rượu” được vẽ cách điệu tạo thành hình một bình rượu và một cánh hoa đang rơi xuống. Ông cho biết có khá nhiều tranh chữ tạo hình do ông thực hiện đều hình thành từ ý thơ Nguyễn Bính. Điều này thật chí lý, bởi chính ông là người đã từng 15 năm sống chung một nhà với người em họ của mình, nhà thơ Nguyễn Bính. Ông đã viết cuốn “Nguyễn Bính và tôi” từ chính những kỷ niệm sâu sắc giữa hai người. Cuốn sách đã cung cấp cho bạn đọc khá nhiều câu chuyện còn bí ẩn, đặc biệt là những “bóng hồng” có liên quan tới nhiều tác phẩm của Nguyễn Bính. Cuốn sách được nhiều người tìm đọc và trở thành một tư liệu quý về nhà thơ tài hoa và bạc mệnh này.
Tôi chợt nhớ một lý do nữa mà mình định kiểm chứng và nhìn lên đôi môi nhà thơ. Ông bật cười hiểu ý, rồi nói:
- Tôi vẫn ăn trầu mà. Ơ kìa! Đây này!
Rồi ông nhoẻn miệng cười, để lộ hàm răng vẫn trắng và đều tăm tắp. Ông khoe mình vẫn nhai xương gà được. Rõ thật lạ, vẫn giọng nói ấm và vang như ngày nào, nếu không nhìn gương mặt ông, thì khó ai đoán đây là một lão nho đã hơn 90 tuổi. Lại nữa, nếu nhìn nụ cười và hàm răng của ông, cũng chẳng ai nghĩ đây là một cụ già ở tuổi thượng thượng thọ. Chả thế, tôi nghe ông nói chuyện mà vẫn cứ nghĩ mình vừa gặp ông ở phòng đọc thư viện về, như hồi nào còn trai trẻ. Ông đã truyền cho tôi tinh thần lạc quan và có trách nhiệm với xã hội đúng như các bức tranh ông vẽ.
Đột nhiên, ông kéo tôi vào cửa bếp và bảo tôi chụp ảnh cho ông bức tranh chữ mới vẽ. Tranh có 3 hình tháp chữ “Kim” ghép thành chữ: “Hâm”. Ông cười, chỉ vào chữ “Hâm”, rồi nói:
- Tôi thế đấy!
Thấy tôi ngước nhìn bức tranh chữ với vẻ tò mò, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn giải thích, đây chính là sự biến tấu từ ba chữ “Kim” là vàng, được lồng trong hình chóp nhọn, đó là những tháp hình chữ “Kim”. Và khi chúng được ghép với nhau tạo thành hình tháp to thì đó chính là chữ “Hâm”, mà theo nghĩa của người Hoa, người Nhật là “hâm mộ”, “mến mộ”, là tuyệt vời, giàu có, chứ không phải là dở người. Nhiều người ở Trung Quốc hay đặt tên con là “Hâm” vì lẽ đó. Rồi ông cười một cách hóm hỉnh, đắc ý vì cách đố chữ kiểu này. Song khi tôi tỏ ý thán phục thì ông lại tự thú nhận rằng:
- Vậy đó! Tôi vẫn là lão già hâm vì đến tuổi này vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn danh, lợi, tình mà.
Rồi ông cười khẩy như tự giễu mình…
Theo nguoibanduong